Chiến dịch Điện Biên Phủ: Bước phát triển đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch
![]() |
Bộ đội Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát-xtơ-ri tại Điện Biên Phủ chiều 7-5-1954. Ảnh tư liệu. |
Phát hiện sự di chuyển của chủ lực ta lên hướng Tây Bắc, ngày 20-11-1953, Na-va quyết định điều 6 tiểu đoàn lính Âu-Phi nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, địa bàn chiến lược quan trọng để giữ vững Lai Châu và bảo vệ Thượng Lào. Tiếp đó, ngày 3-12-1953, Na-va ra lệnh bỏ Lai Châu rút lực lượng về Điện Biên Phủ, gấp rút xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Chúng coi Điện Biên Phủ vừa là một cái chốt, vừa là cái bẫy, sẵn sàng nghiền nát các đại đoàn chủ lực của ta.
Trước những diễn biến mới của tình hình địch, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành T.Ư Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục đích là nhằm tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một trong những tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân Pháp ở Đông Dương, góp phần giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp mau tới thắng lợi cuối cùng. Bộ Tư lệnh chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ được chuẩn bị chu đáo và diễn ra với ba đợt chiến đấu, thể hiện cuộc đấu trí, đấu lực rất căng thẳng, quyết liệt giữa ta và địch. Đối với ta, Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và ngoại giao. Xét trên phương diện quân sự thì Chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu bước phát triển đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch.
Trong chiến dịch này, ta sớm hình thành thế bao vây, xây dựng hệ thống chiến hào tiến công, siết chặt vòng vây từng cụm cứ điểm và cả tập đoàn cứ điểm, chia cắt thế phòng ngự liên hoàn của địch. Lúc đầu, chiến dịch dự định mở màn ngày 25-1-1954, theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, nhưng do địch tăng cường binh lực và xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc; đồng thời, ta chưa hoàn chỉnh một số mặt về hiệp đồng nên Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kéo dài thời gian chuẩn bị và chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Ngày mở màn chiến dịch được quyết định vào ngày 13-3-1954.
Từ khi ta chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, đặc biệt là trong quá trình chiến dịch diễn ra, quân ta đã xây dựng một hệ thống trận địa tiến công, bao vây liên hoàn và siết chặt từng phân khu, từng cụm cứ điểm, thậm chí từng cứ điểm, chia cắt, cô lập địch. Với việc hình thành thế trận bao vây, chia cắt đó khiến quân địch hoàn toàn bị bất ngờ và bị động đối phó, còn ta phát huy được sức mạnh tổng hợp đánh địch để tiêu diệt địch.
Thực hiện “đánh chắc, tiến chắc”, ta tập trung hỏa lực tiêu diệt từng cứ điểm, tiến tới tiêu diệt khu vực trọng yếu nhất của địch. Trong chiến dịch này, ta tập trung phần lớn bộ đội chủ lực trực thuộc bộ, gồm 5 đại đoàn và các đơn vị thông tin, vận tải, quân y, cùng một bộ phận lực lượng vũ trang các Liên khu 3, 4, Việt Bắc, Tây Bắc và dân công phục vụ chiến dịch. Xét tương quan lực lượng, ta hơn địch về số quân, số lượng pháo binh, nhưng lại ít hơn địch về số lượng đạn và địch chiếm ưu thế về máy bay, xe tăng, xe bọc thép, pháo cỡ lớn. Địch còn có hệ thống công sự được củng cố, xây dựng rất kiên cố.
Căn cứ vào so sánh lực lượng và thế trận giữa ta và địch, Bộ Tổng Tư lệnh tập trung binh hỏa lực đánh chắc thắng trong từng trận. Trận Him Lam, ta tập trung ưu thế về binh lực (ta 3-địch 1), còn về hỏa lực, ta hơn địch 10 lần. Trận đánh đồi Độc Lập, ta chiếm ưu thế về lực lượng (ta 4,5-địch 1) và trận Bản Kéo, ta 3-địch 1. Nhờ đó, ta đập tan hệ thống phòng ngự chủ yếu của địch ở vòng ngoài. Sang đợt hai chiến dịch, ta tiếp tục phát huy ưu thế tập trung binh hỏa lực để tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Đặc biệt, trong đợt tiến công thứ ba, lần đầu tiên, ta sử dụng hỏa lực H6 bắn cấp tập đã gây bất ngờ lớn, làm tê liệt cụm pháo binh địch ở Hồng Cúm, tạo điều cho quân ta đồng loạt tiến công, đánh chiếm các cứ điểm quan trọng, rồi phát triển vào hướng Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta vận dụng cách đánh hiểm, linh hoạt, hạn chế chỗ mạnh của địch, khoét sâu chỗ yếu của chúng, phát huy thế mạnh của ta để giành thắng lợi. Bước vào đợt hai chiến dịch, sau những ngày đầu chiến đấu gặp khó khăn, ta chuyển sang kết hợp vây hãm, đánh lấn, tổ chức các đội bắn tỉa, luồn sâu, đoạt dù, đưa pháo và súng máy phòng không tiến vào thung lũng Mường Thanh, khống chế nguồn tiếp tế và tăng viện bằng đường không của địch. Nhờ đó, ta đã hạn chế đến mức thấp nhất chỗ mạnh của địch là có quân số đông mà hóa ít; có công sự rất kiên cố, hỏa lực mạnh mà hóa yếu, dồn chúng vào thế bất lợi. Điểm phát triển đặc sắc về cách đánh của ta trong đợt ba chiến dịch là thực hiện tổng công kích đúng thời cơ. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kịp thời ra lệnh trên toàn mặt trận trước giờ quy định, ngay chiều 7-5-1954 (không chờ đến tối như dự kiến ban đầu), thọc sâu đánh thẳng vào trung tâm Mường Thanh và Sở Chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri và toàn bộ Ban Tham mưu địch, buộc số địch còn lại kéo cờ trắng ra hàng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, cũng như trong cả cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nghệ thuật tác chiến chiến dịch và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại.
Theo QĐND
Ý kiến bạn đọc (0)