Quan tâm xây dựng xã hội học tập và thúc đẩy bình đẳng giới trong giáo dục
![]() |
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà thảo luận tại Tổ. |
Học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập
Trước hết, về học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, giáo dục thường xuyên, tôi đồng tình với quy định tại khoản 2 điều 46 trong dự thảo Luật Giáo dục. Theo đó việc học tập suốt đời không chỉ diễn ra trong nhà trường chính quy mà còn là quá trình tự học, tự nghiên cứu, tự nâng cao trình độ của mỗi người; được thực hiện tại các cơ sở văn hóa, tại nơi làm việc, cộng đồng dân cư và thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng…
Tuy nhiên, khi mở rộng phạm vi giáo dục thường xuyên ở các cơ sở văn hóa, tại nơi làm việc, cộng đồng dân cư thì trách nhiệm thực hiện (người dạy, người học) chưa được quy định rõ ràng tại Dự thảo. Hơn nữa, chương trình giáo dục thường xuyên cũng phụ thuộc vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ của nơi làm việc, cộng đồng dân cư. Nếu sử dụng chương trình được quy định bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp như quy định tại Điều 45 Luật Giáo dục hiện hành thì có phần khiên cưỡng. Do vậy đề nghị ban soạn thảo làm rõ nội dung này, hoặc quy định theo hướng linh hoạt hơn về thẩm quyền và nội dung chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu giáo dục thường xuyên để phù hợp với việc thực hiện ở cơ sở văn hóa, tại nơi làm việc, cộng đồng dân cư.
Do vậy, để tăng cường trách nhiệm thực hiện giáo dục thường xuyên tại cơ sở văn hóa, nơi làm việc, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định tại Khoản 1 Điều 97 như sau: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân có trách nhiệm bảo đảm việc thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên tại nơi làm việc
Quan tâm các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục, Báo cáo Điều tra Đánh giá các Mục tiêu Trẻ em và phụ nữ năm 2014 phát hiện ra rằng, tỷ lệ trẻ em không đi học phụ thuộc nhiều vào trình độ giáo dục của người mẹ (đặc biệt, 62% số trẻ không đi học trong độ tuổi 15-17 tuổi có mẹ không được đi học), điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục cho phụ nữ đối với việc giáo dục thế hệ tiếp theo. Chính vì vậy, Tago đã nói: “Giáo dục một người đàn ông được một người đàn ông, giáo dục một người phụ nữ được một gia đình”. Việt Nam hiện đứng thứ 69/140 quốc gia được khảo sát về mức độ bình đẳng giới theo báo cáo được công bố ngày 2-11-2017 của Diễn đàn Kinh tế thế giới.
Từ thực trạng nêu trên, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới để sửa đổi, bổ sung một số điều trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học. Theo đó, tại Điều 12, Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học, đề nghị bổ sung, Khoản 6 cần sửa thành “Xây dựng chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ thích hợp để nâng cao chất lượng giảng viên; chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, chức danh phó giáo sư, giáo sư trong các cơ sở giáo dục đại học đảm bảo được tỷ lệ cân đối, hài hòa nam nữ”.
Hỗ trợ người mẹ đang nuôi con nhỏ đi học đại học, sau đại học
Hiện nay, pháp luật mới quy định đối tượng nữ cán bộ, công chức viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi thì được hỗ trợ (Điều 14 Luật Bình đẳng giới). Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay có trường hợp nữ sinh làm mẹ khi vẫn ngồi trên ghế giảng đường. Số liệu của khoa công tác xã hội - Học viện Phụ nữ Việt Nam khóa học 2014 - 2018, đến năm học thứ 4 đã có 15/176 sinh viên sinh con (thường những sinh viên này phải bảo lưu, quá trình học bị phân tán, do đó cơ hội có việc làm khó khăn hơn các sinh viên khác). Để tạo điều kiện cho nữ sinh hoàn thành tốt thiên chức làm mẹ và việc học tập, rất cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người mẹ đi học. Ví dụ được kéo dài hơn thời gian bảo lưu việc học tập cho nữ sinh trong hoàn cảnh này hoặc hỗ trợ một khoản tài chính để có điều kiện chăm sóc sức khỏe bản thân và con tốt hơn.
Nghiên cứu miễn học phí đối với cấp mầm non và trung học cơ sở
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục quy định tại Điều 105 về học phí “….Học sinh tiểu học trường công lập không phải nộp học phí..’. Tôi đề nghị quy định miễn học phí đối với cấp mầm non và trung học cơ sở bởi các lý do sau đây: Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Chấp hành T.Ư ban hành đề ra mục tiêu “Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020.”
Mục tiêu 4.1 Chương trình Nghị sự 2030: “Đến năm 2030, bảo đảm tất cả trẻ em trai và trẻ em gái hoàn thành giáo dục tiểu học và trung học miễn phí, công bằng và có chất lượng để có được kết quả học tập phù hợp và hiệu quả”
Từ năm 2018, trẻ em 5 tuổi ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã được miễn học phí theo Nghị quyết 46/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2017.
Ở nhiều vùng nông thôn, miền núi khác, đặc biệt với các hộ cận nghèo, mức học phí hiện nay dù thấp vẫn là rào cản, gây khó khăn cho việc huy động trẻ đến trường. Thêm vào đó, đóng góp vào ngân sách nhà nước từ học phí của bậc học mầm non chỉ chiếm 3%-5% chi phí đầu tư cho hoạt động giáo dục nên việc miễn học phí là cần thiết.
Theo nghiên cứu của Thư viện Quốc hội - Văn phòng Quốc hội phối hợp với Quỹ Hanns Seidel điều tra 888 người cho thấy 74,6% đồng tình với quy định miễn học phí cho học sinh THCS.
Bộ GD-ĐT đã thực hiện khảo sát và nghiên cứu tình hình miễn học phí tại 18 quốc gia đại diện 4 châu lục Á, Âu, Mỹ, Phi; gồm đại diện các nước thu nhập cao, trung bình, thấp. Nghiên cứu cho thấy 4/18 nước miễn học phí cho tất cả các cấp học từ mầm non tới THPT, 6/18 nước miễn học phí với giáo dục mầm non, 18/18 nước miễn học phí học sinh tiểu học, 11/18 nước miễn học phí hoàn toàn với bậc THCS, 8/18 nước miễn học phí hoàn toàn với bậc THPT. Như vậy, 33% các nước miễn học phí hoàn toàn cho cấp học mầm non, 61% miễn học phí với giáo dục THCS.
Ý kiến bạn đọc (0)