Nghề truyền thống ở Tiến Dũng dần mai một
![]() |
Làng nghề Thuận Lý, Đông Thắng hiện chỉ còn người già làm nghề. |
Một thời chưa xa
Theo ông Nguyễn Văn Công, Phó Chủ tịch UBND xã Tiến Dũng, nghề đan lát xuất hiện ở Thuận Lý và Đông Thắng từ khi nào không ai còn nhớ rõ. Chỉ nghe một số người lớn tuổi trong làng nói lại, ngày còn bé, họ đã chứng kiến cảnh người dân quê mình miệt mài với công việc đan lát. Bàn tay chai sần nhưng khéo léo của bao thế hệ nối tiếp nhau đã tạo nên những vật dụng rất gần gũi và cần thiết đối với cuộc sống của người dân nông thôn như: rổ, rá, thúng, giần, sàng, nong nia.
Vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước, cả làng đều làm nghề. Cứ xong mùa vụ là nhà nhà bày tre ra để đan. Ngoài làm ruộng, đan lát là nguồn thu nhập quan trọng của bà con. Những công việc nặng nhọc như chặt tre, pha tre, cạp vành do đàn ông đảm nhận, còn người già, phụ nữ, trẻ em thì vót nan, đan lát.
Trước đây, khi các mặt hàng gia dụng bằng nhựa chưa phổ biến thì hai làng Thuận Lý và Đông Thắng cung cấp các loại rá, rổ, giần sàng, nong nia và nhiều sản phẩm bằng tre cho phần lớn hộ dân trong tỉnh, thậm chí cả các tỉnh lân cận.
Ông Ngô Quốc Tuấn, thôn Thuận Lý, người hơn 40 năm gắn bó với nghề đan lát tâm sự: “Những năm cực thịnh, một người thợ lành nghề trung bình mỗi ngày thu khoảng 100 nghìn đồng. Tuy khó làm giàu nhưng có nghề đan lát trong tay, kể cả những thời điểm khó khăn nhất, chúng tôi cũng không lo đói ăn, thiếu mặc. Sản phẩm làm ra bao nhiêu có người đến mua gom tiêu thụ hết bấy nhiêu”.
Chọn nghề thu nhập cao hơn
Đến thôn Thuận Lý và thôn Đông Thắng vào dịp này, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng vì sự đổi thay. Những ngôi nhà cao tầng không đếm xuể, đường bê tông trải dài tận cánh đồng. Không còn cảnh nhà nhà, người người đan lát như những năm trước; chỉ còn một số người già gắn bó với nghề.
Ông Ngô Văn Sao, Trưởng thôn Thuận Lý cho biết: “Thôn có 278 hộ, trước kia khoảng 90% số hộ làm nghề đan lát, lúc nào thôn cũng vui như hội vì mọi người thường tụ tập tại một số nhà có sân rộng vừa đan vừa nói chuyện. Thuyền chở tre về làng nghề nhộn nhịp khắp bến sông. Thế nhưng, nay chỉ còn hơn 30 hộ làm nghề thường xuyên, số ít tranh thủ làm lúc sáng sớm hoặc buổi tối”. Tương tự, thôn Đông Thắng có gần 400 hộ dân nhưng nay chỉ có hơn 200 hộ tranh thủ làm trong thời gian rảnh rỗi.
Ông Nguyễn Văn Công cho rằng, thu nhập từ nghề đan lát chỉ đạt từ 70 đến 100 nghìn đồng/ngày, dù cao hơn làm ruộng nhưng so với mặt bằng chung lại thấp. Đơn cử như làm phụ hồ một ngày cũng thu được từ 130 đến 150 nghìn đồng, lại được đi đây đi đó chứ không bị gò bó suốt ngày ở làng. Do đó, không còn nhiều người gắn bó với nghề truyền thống mà chuyển sang làm nghề khác thu nhập cao hơn như: Thợ xây, thợ sơn, khoan cắt bê tông…
Hiện hai thôn Thuận Lý và Đông Thắng có hàng chục đội thợ như vậy, mỗi đội khoảng 15 người hoặc đông hơn. Ngoài ra, tại thôn Thuận Lý còn có gần 70 lao động đi làm việc tại nước ngoài.
Ông Phạm Văn Hùng, thôn Đông Thắng cho hay: “Tôi làm nghề đã được 30 năm. Trước kia cả nhà gần chục người đan cả ngày. Nhưng giờ công nghiệp phát triển, các con đều đi làm ở công ty vì được ra ngoài xã hội, thu nhập lại cao hơn nghề đan lát. Cả làng đều như vậy, lớp trẻ không muốn gắn bó với nghề nữa. Vả lại, các con đi làm đều gửi cháu cho ông bà trông nên chúng tôi cũng không còn nhiều thời gian để đan lát, chỉ tranh thủ lúc rảnh rỗi”. Đặc biệt, sự xuất hiện của các sản phẩm rổ, rá, lồng bàn nhựa, thép inox với mẫu mã đa dạng, gọn nhẹ, tiện dụng đã khiến nhu cầu về hàng mây tre giảm.
Để người dân gắn bó với nghề đan lát, thời gian qua, chính quyền địa phương và ngành chức năng đã thực hiện nhiều giải pháp như: Đào tạo nghề đan bồ, bèo mỹ nghệ để xuất khẩu hay hỗ trợ làng nghề quảng bá thương hiệu, sản phẩm thông qua các kỳ hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước; vinh danh thợ giỏi, nghệ nhân, người có công đưa nghề về nông thôn…
Tuy nhiên, các giải pháp trên vẫn chưa cho kết quả như mong muốn. Nghề truyền thống ở Đông Thắng và Thuận Lý vẫn đang dần mai một. Phải chăng đó là một xu hướng tất yếu của nhiều làng nghề khi KT-XH phát triển? Có thể đến một lúc nào đó, người dân làng nghề chỉ còn nhắc về nó trong những câu chuyện kể về quá khứ.
Việt Anh
Ý kiến bạn đọc (0)