Sông Thương da diết tiếng tu hú
![]() |
Nữ sĩ Anh Thơ. |
Nữ sĩ Anh Thơ sáng tác từ sớm, năm 17 tuổi với tập "Bức tranh quê", được nhận giải Khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Thuở ấy cả nước bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ nên hầu hết các tác phẩm văn nghệ tiền chiến bị "lùi lại" tuyến sau, không được phổ biến rộng rãi. Ngay cả cuốn "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh - Hoài Chân giới thiệu một thời đại trong thi ca ấy cũng chỉ nằm trong hệ thống sách nghiên cứu tham khảo ở các khoa ngữ văn của trường đại học tổng hợp hoặc sư phạm. Sau này, đọc lại "Bức tranh quê" của nữ sĩ Anh Thơ, tôi biết thêm nhiều điều liên quan đến tập thơ. Nào là chị phải viết vụng bố, nếu lộ ra sẽ bị ăn đòn. Nào là tập thơ viết đủ bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông hầu hết gói gọn trong mười hai câu thơ... với những cảnh sắc xung quanh chị mà hồn vía người viết hòa vào hồn cây cỏ, đất trời... Không chỉ nghe thấy, nhìn thấy mà cảm thấy cái hồn sự vật của một tâm hồn khao khát muốn vươn ra, vượt khỏi hoàn cảnh tù túng, ngưng đọng, bế tắc đương thời. Biết bao nét đặc tả khêu gợi sống động trong tĩnh lặng của vùng quê xưa - đặc trưng của cảnh sắc đồng bằng Bắc Bộ hiện ra ám ảnh tôi.
Bây giờ nhớ lại, những kỷ niệm về chị Anh Thơ vẫn còn nguyên trong ký ức tôi. Hồi ấy vào năm 1966, Ty Văn hóa Hà Bắc tổ chức trại sáng tác cho các cây bút cộng tác với tạp chí Văn nghệ tỉnh. Trại đóng tại Liên Sơn - Cao Thượng (Tân Yên) dưới những vạt dẻ sum suê, nơi Ty Văn hóa sơ tán về. Trại mời các nhà văn, nhà thơ công tác ở Trung ương có gắn bó với Hà Bắc về chấm bài trong đó có Nguyên Hồng, Kim Lân và Anh Thơ. Tuy không có điều kiện tham dự trại nhưng khi gặp các bạn viết cùng trang lứa, tôi được nghe đủ chuyện về sự tận tình của các "thầy, cô" góp ý nâng cao "tác phẩm" của cái thuở ban đầu bỡ ngỡ khi mới tập tành sáng tác. Chị Anh Thơ đọc bài rất cẩn trọng, chi tiết, chị luôn quan tâm đến cái hồn của bài viết. Có lẽ hơn ai hết chị hiểu sự khổ ải, nhọc nhằn của nghiệp văn.
Lại nhớ đầu năm 70 của thế kỷ trước, thỉnh thoảng từ Bắc Ninh về Hà Nội, tôi thường hay qua lại thăm anh Chu Bá Nam (em ruột nhà văn Đỗ Chu) tại khu ký túc xá Trường Đại học Dược ở dốc Thọ Lão. Có lần, anh Nam rủ tôi vào thăm nhà chị Anh Thơ ở khu tập thể Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô - 104 Lò Đúc. Lúc ấy, chị Anh Thơ đã xây dựng gia đình với anh Dinh - một bác sĩ nha khoa hiền lành, nhiều lúc là thư ký chép thơ cho nữ sĩ và sống cùng nhau rất tâm đầu ý hợp. Chị Anh Thơ tiếp chúng tôi rất niềm nở, chị vừa đi thực tế khu 4 tuyến lửa về. Chị rửa ấm pha trà Ba Đình (một loại trà ngon thời ấy) và gọt táo cho chúng tôi ăn. Chị hỏi thăm anh Nam về nhà văn Đỗ Chu, kể những chuyện mắt thấy tai nghe về chuyến đi thâm nhập thực tế ở Hà Bắc, nơi có sông Thương, sông Cầu thơ mộng... Tôi chỉ biết im lặng và nghe... Chị hỏi tôi về những sáng tác đầu tay, có thì đưa chị đọc. Tất nhiên tôi ngượng vì mình mới tập viết, không muốn làm bận lòng chị.
Có lẽ bài thơ "nhập lòng" mà tôi biết được của nữ sĩ Anh Thơ chính là bài "Tiếng chim tu hú". Cảnh sắc rực rỡ vùng quê bên sông Thương vào mùa vải chín, khắc khoải tiếng chim tu hú kêu, tiếng lòng của nhà thơ với quê hương những ngày thoát ly hoạt động cách mạng gây ấn tượng không dễ phai mờ trong tôi. Vẫn là rung động từ "Bức tranh quê" nhưng tâm trạng chị đã thoát khỏi cảnh tù túng, bế tắc của tâm trạng cô đơn, biết chia sẻ và chấp nhận hy sinh vì con người và nghĩa lớn của dân tộc. Tôi đã từng nghe chị tâm sự: "Lần ấy về thăm quê, khi đến vườn vải (gần Yên Dũng), chợt nghe tiếng chim tu hú da diết kêu, tôi bỗng nhớ lại những năm tuổi trẻ của mình. Ngày đó, có người con trai chưa kịp đến hỏi thì mình đã đi kháng chiến. Mình không chỉ buồn mà còn thương cha. Nỗi lo lắng cho đứa con yêu quá lứa nhỡ thì của ông thật chân thực. Lúc gặp ông ở vùng đồi Yên Thế, giữa mùa vải ông chỉ nhắc con gái "má hồng có thì". Để yên lòng cha mình, an ủi ông, mình khổ mình già nhưng còn bao em gái khác bị giặc bắt, đến ngày kháng chiến thành công sẽ hạnh phúc, vui tươi. Con có thiệt thòi nhưng bao cô gái khác sẽ hạnh phúc”. Rồi chị khe khẽ đọc: Nắng hè đỏ hoa gạo/ Nước sông Thương trôi nhanh/ Trên đường quê bước rảo/ Gió nam giỡn lá cành / Bỗng tiếng chim tu hú/ Đưa từ vườn vải xa/ Quả bắt đầu chín lự/ Ngọt như nỗi nhớ nhà / Cha già thêm tóc bạc/ Chống gậy bước lên đồi/ Thương một mùa vải đỏ/ Má hồng con đang tươi/ Có chàng qua chạm ngõ /Bỗng khói lửa ngút trời/ Con đi đêm súng nổ /... Mười năm chưa về quê/ Tu hú ơi tu hú /Kêu hoài chi vườn xanh/ Ta còn đi, đi nữa / Như dòng sông trôi nhanh /Nhắn với chim tu hú / Cha già vui đợi mong/ Mười năm trong khói lửa/ Má con dù nhạt hồng/ Nhưng bao nhiêu em gái / Đẹp lên mùa vải chín ven sông (Tiếng chim tu hú) - Bắc Giang, 1954.
![]() |
“Tuyển tập Anh Thơ” - NXB Văn học 1988. |
Bẵng đi một thời gian dài tôi mới gặp lại chị Anh Thơ trên quê hương Bắc Giang mà chị gắn bó nhiều năm - khi in tập hồi ký văn học "Từ bến sông Thương", chị nhắc rất nhiều kỷ niệm và coi đó như khởi nghiệp văn chương của mình. Thời gian này, để ghi nhận một đời văn nghiệp của chị với thơ ca và chị là người hoạt động cách mạng từ những ngày trứng nước, UBND tỉnh Hà Bắc tổ chức cuộc tọa đàm nữ sĩ Anh Thơ với bạn đọc và giao Hội Văn nghệ tỉnh tổ chức tại phòng khách của tòa soạn báo Hà Bắc (nơi tôi công tác). Duyên dáng trong tà áo dài trắng, chị Anh Thơ xúc động kể lại những năm tháng hoạt động phụ vận ở huyện Yên Dũng, thăm trận địa pháo phòng không bảo vệ cầu Bắc Giang, thăm bạn bè cũ ở xóm Thùng Đấu, thị xã Bắc Giang thân thương thuở nào. Gặp lại tôi, chị vẫn ân cần thăm hỏi như một người chị đi xa về nhớ đến em trai. Tôi được phân công viết một bài tường thuật buổi tọa đàm với tư cách phóng viên báo tỉnh nhưng chưa "bén lắm" và tôi như cảm thấy mình có lỗi với chị. Thế mới biết, để hiểu và viết về ai đó, thật khó biết bao mặc dù mình rất ngưỡng vọng và kính trọng người ấy.
Lần gặp cuối cùng với chị Anh Thơ trước khi chị mất khiến tôi nhớ mãi... Tôi đang biên tập bài ở tòa soạn báo Sức khỏe và Đời sống thì nhận được điện chị Anh Thơ bệnh nặng. Tôi và vợ chồng nhà thơ Phạm Hồ Thu - Trần Quốc Thực đến thăm chị ở ngõ Văn Chương - nơi suốt ngày vọng lại tiếng còi tàu từ phía ga Hà Nội. Phòng chị lúc nào cũng có hoa tươi. Do tuổi cao sức yếu nên chị nhờ một cháu gái đến chăm nom, nấu cơm, giặt giũ. Sau khi anh Dinh - người chồng chị hết mực yêu thương mất, chị quyết định từ Sài Gòn trở ra Hà Nội. Con gái chị đã theo chồng định cư tại Pháp thỉnh thoảng có thư về thăm mẹ. Chị vẫn đọc đều thơ tôi và các tác giả quê Kinh Bắc trên tuần báo Văn nghệ. Nữ sĩ nhắc lại kỷ niệm về các bạn thơ trẻ Hà Bắc. Chị mong có những sáng tác mới gửi đến để chị được đọc, được chia sẻ cùng chúng tôi. Nữ sĩ Anh Thơ vẫn như ngày nào, vẫn hào hứng nhiệt thành như chưa hề biết tuổi già ùa đến với mình. Tiễn chúng tôi ra đầu cầu thang, chị dặn: "Nếu rỗi đến với chị, có sáng tác thơ mới nữa thì càng hay". Chị bao giờ cũng chí tình, nồng hậu mà thật thấu đáo. Tôi nhìn chị ứa nước mắt...
Nữ sĩ Anh Thơ qua đời vào ngày 14-4-2005. Bây giờ khi viết mấy dòng kỷ niệm này, tôi lại nhớ đến chị. Nhớ cái nhìn trìu mến của chị với chúng tôi khi mới vào nghiệp văn. Nhớ câu thơ chị viết mà nao nao nhớ quê hương với dòng Thương đôi dòng trong đục.
Nguyễn Thanh Kim
Ý kiến bạn đọc (0)