Tích hợp văn hóa trong văn du ký Bắc Ninh nửa đầu thế kỷ XX
BẮC NINH - Có phần khác với các trang du ký tích hợp lịch sử vốn nghiêng về nhân vật, sự kiện, văn du ký tích hợp văn hóa thiên về phản ánh các giá trị truyền thống tinh thần, vật thể và phi vật thể; thiên về cảnh quan sinh thái, sông núi, phong tục, tập quán và thể hiện đậm nét trong các dịp lễ Tết, lễ hội cũng như cuộc sống thường ngày…
Trên các trang du ký viết về Bắc Ninh thấy in đậm sắc thái cảnh quan văn hóa liên quan chặt chẽ đến địa thế và được nhận diện trong tương quan đặc trưng truyền thống vùng miền. Ký giả Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục quê sinh xứ Kinh Bắc sau ba chục năm mới trở về cố hương, vượt lên sự miêu tả hình thế địa lý và nhấn mạnh căn rễ địa - văn hóa: “Khi tới tỉnh thành Bắc Ninh, thì trời đã xế chiều, mới xuống xe máy lên xe tay, dạo qua ngoài phố một chốc, rồi vòng về cửa Hậu tìm người quen. Phàm cái quang cảnh nơi tỉnh thành trong nước ta mấy năm nay, đại khái đều là cái quang cảnh đổi cũ ra mới. Trước kia phần nhiều nhà tranh, bây giờ phần nhiều nhà ngói. Trước kia phần nhiều đường đất mà ít bụi, bây giờ phần nhiều đường đá mà nhiều bụi. Trước kia phần nhiều có những câu đối hồng hoàng, tả cảnh sông cảnh núi, cảnh hoa cảnh trăng, ngụ ý phong nhã, bây giờ phần nhiều có những cái chiêu bài bạc vàng xanh đỏ, vẽ ông sao ông sấm, con hươu con cá, tỏ ý cạnh tranh. Ấy cái quang cảnh chỗ tỉnh thành mọi nơi đại khái như vậy. Cho nên cái quang cảnh tỉnh thành Bắc Ninh cũng không hề phải tả gì cho lắm. Duy tỉnh Bắc Ninh vẫn còn có một bức thành của nguyên triều bằng gạch, tiền hậu tả hữu, lầu, cổng, cống, hào, vẫn còn y nhiên, rêu gạch vẫn mốc thếch, nước hào vẫn trong veo, mà phố xá tỉnh Bắc Ninh cũng không náo nhiệt gì, vẫn còn có cái khí vị êm đềm mát mẻ như xưa, ấy là cái thú riêng của kẻ hành giả vậy”; và sâu lắng hơn, ông ghi nhớ gia phong coi trọng thi thư và người mẹ phúc đức chăm lo việc học cho con: “Ký giả thuở ấu thời, thân phụ đi vắng xa, thân mẫu ở nhà cũng hơi biết chữ Nho. Nhưng chỉ thích Quốc âm. Vì sách chữ Nho không thích hợp với tính tình đàn bà, vả chăng cũng nhiều chỗ khó hiểu. Nên chi những sách vặt An Nam bán ở Hàng Gai, như Thúy Kiều, Thị Kính, Trinh thử, Khuyến Hiếu thượng thư, Quốc sử diễn ca, vân vân, phàm những sách có quan thiết với tính tình luân lý, mua về hồ đủ. Nhưng hay đọc nhất là quyển Quan Âm Thị Kính, ít khi rời tay, cũng là tư tưởng tôn giáo. Lại thường đem các sách Quốc âm ra dạy con, và bắt nhận lấy mặt chữ. Vì thì buổi loạn ly, chửa có chỗ cho con đi học chữ Nho, chẳng qua cho quốc âm là một món dạy tạm đấy thôi. Ký giả nhân cái cảnh ngộ gia đình thế, mà sự học của mình, lại hóa ra được tuần tự phải phép” (Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh. Nam Phong tạp chí, 1925)... Ký giả bày tỏ tâm tình người đi xa về một thành cổ Bắc Ninh nhưng cũng là câu chuyện chung cho miền quê Kinh Bắc trong cuộc đổi thay, biến động cũ - mới giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
![]() |
|
Trẩy hội. Ảnh: Nguyễn Trọng Hiếu. |
Bắc Ninh nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử, các đình, chùa, đền, miếu (Dâu, Lim, Dạm, Bút Tháp, Thổ Hà, Bổ Đà, Đại Bi, Vĩnh Nghiêm, Phồn Xương, Suối Mỡ…) đã được phản ánh một phần trong các trang du ký. Các tác giả đến với miền quê địa linh nhân kiệt trong tâm thế người du hành, du lịch, du ngoạn, du ký, thăm viếng nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, hòa hợp cùng đất trời cho nên ngay nhan đề cũng bộc lộ tâm thế “vị nghệ thuật” như Việt Sinh với "Trên đồi Lim, Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng Giang" (1933), Đồ Nam với "Thăm tìm dấu cũ - Chùa Bút Tháp, lăng Kinh Dương Vương" (1934), Nguyễn Đình Miên với "Phiếm du kỷ niệm một cuộc đi chơi Phủ Lạng Thương" (1936), Vân Thạch với "Tiên Du thắng tích" (1941), Trúc Khê với "Chơi núi Lạn Kha" (1942)…
Chẳng hạn, Nhật Nham với "Theo vết nhà Mạc" qua nơi non cao, rừng thẳm cũng nhấn mạnh vị thế địa - văn hóa vùng non cao Tây Yên Tử liên quan đến lưỡng triều Lê - Mạc: “Từ khi mất ngôi vua trong vòng 75 năm (1592-1667), nhà Mạc luôn luôn chống nhau với nhà Trịnh, tuy lực lượng sút kém hơn Trịnh, nhưng nhờ có trí kiên nhẫn, nhất là nhờ có hang sâu rừng thẳm trong dải Huyền Đinh làm sào huyệt, nhà Mạc có thể kéo dài cuộc đề kháng trong thời gian gần một thế kỷ… Cái sào huyệt hiện nay còn nhiều di tích. Thuộc địa phận xã Nghĩa Phương (Bắc Giang), giữa dải núi Huyền Đinh trùng trùng điệp điệp, hiện ra một thung lũng phì nhiêu, bao la bát ngát. Trong khu vực này còn nhiều dấu vết một thời kỳ dĩ vãng. Chính tại nơi này, nhà Mạc xưa đã lập hành doanh để đóng quân chống nhà Trịnh, mong khôi phục lại giang sơn. Hiện còn nhiều di tích các doanh trại… Hiện nay, con đường nhà Mạc vẫn còn nguyên di tích, làm một con đường giao thông giữa vùng sơn cước không phải là không tiện lợi; nhất là trong mùa mưa, các thung lũng bị úng thuỷ, nhờ có con đường nhà Mạc này mà sự giao thông không đến nỗi phải gián đoạn hay đình trị… Khi nhà Mạc kéo quân chạy lên Cao Bằng, dân quanh miền bắt được nhiều thứ đồ vật đánh rơi” (Tri tân Tạp chí, 1944)…
| Với số lượng khoảng vài ba chục bài nhưng du ký về Bắc Ninh cho thấy đặc tính vùng quê tích hợp nhiều phương diện văn hóa khác nhau, thể hiện toàn cảnh đời sống văn hóa giai đoạn đầu thế kỷ XX, thu nạp nhiều tri thức văn hóa. Nhìn rộng ra, tác phẩm du ký viết về Bắc Ninh giúp người bốn phương cùng “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, lưu giữ ký ức một thời cho mai sau… |
Gắn với các điểm di tích là cảnh quan văn hóa và đời sống tinh thần con người, sự lắng sâu của tâm linh đã trở thành nếp sống bình dị thường ngày. Chẳng hạn, nhà văn Việt Sinh (Thạch Lam) ngậm ngùi khi đến miền chiến địa linh thiêng: “Vùng Yên Thế: một vùng hiểm trở, toàn đồi, toàn những rừng rậm tối tăm, những bụi cây gai góc, những ngàn lau sắc và những nội cỏ mênh mông mà mỗi khi gió đến, ngả nghiêng rập rờn như sóng chiều trên mặt bể ngoài khơi. Chỗ đó, trước đây đã là một chỗ chiến trường cho những cuộc đánh giết nhau ghê gớm, cho những trận chạm gươm giáp mặt, những cuộc lẩn lút trốn tránh nguy nan. Máu người đã vấy trên cây cỏ của cả một vùng. Bây giờ, người chiếm cứ giang sơn ấy không còn nữa”; cho đến đoạn kết, khi đứng trên đồi Gò chiến trận năm xưa đã trải qua hai chục năm mà ngẫm ngợi về khí chất con người: “Lên đến trên đồi, chúng tôi dừng lại: lẫn các bụi cây rậm rạp, chỉ còn một dải lũy thành bằng đá ong, nhiều chỗ lở nát. Trong lũy, một khu đất phẳng cỏ mọc, vôi gạch tung bừa bãi… mấy cái nền, mấy bậc thang… Tất cả một thành cũ, bây giờ chỉ còn có thế thôi. Một cảm giác buồn rầu, lạnh lẽo mà buổi chiều lại làm lạnh lẽo thêm như thấm thía vào trong người… Cơn gió chiều đưa đến, rặng lau khô và sắc cùng nhau xào xạc, trên tường thành, như rầm rì kể lại những chuyện bí mật và ghê sợ ngày xưa… Bóng mây chiều bỗng che rợp dãy đồi… Tôi tưởng như bóng người Yên Thế lẩn quất đâu đây mênh mông, rộng rãi, như ôm ấp cả một vùng” (Bóng người Yên Thế: Từ Hố Chuối đến Đồn Gò - Giang sơn Đề Thám. Ngày nay, 1935)… Tác giả không kể rõ sự tình nhưng vẫn thấy được nỗi niềm và chiều sâu văn hóa ở một miền quê rừng núi, một tấm gương kiên trung, một người anh hùng áo vải đã hóa thân vào đất trời, sông núi quê hương.
Khác biệt hơn, xứ Bắc vốn nổi danh với lời ca quan họ nên đã định hình cả một cụm bài du ký về hội hát, hội xuân, hội làng. Này là cách trang phục truyền thống của “Con gái vùng Lim” đã đi vào ca dao, cổ tích và trong văn du ký của Việt Sinh: “Hôm nay các cô đến cũng khá đông. Từ chợ lên đến đỉnh đồi, rải rác từng bọn một, các cô khoác tay đứng sát nhau, cười nói chuyện trò vui vẻ. Trông các cô rất vui mắt, quần áo các cô mặc thật tươm tất, gọn gàng, không phải chỉ toàn một mùi nâu tối hay lạnh lẽo như các miền khác, nhưng toàn những mùi tươi, đẹp; áo tứ thân trong ngoài hai mùi tươi thắm, yếm trắng tinh, giải yếm lụa thắt lưng mùi cá vàng cùng với tà áo theo chiều gió bay phất phơ. Có lẽ vì nước ngọt, đồng mầu nên các cô vùng Lim biết trang điểm một cách vừa tươi vừa nhã nhặn” (Trên đồi Lim. Phong hóa, 1933)… Việt Sinh còn nhập cuộc, tường thuật chi tiết một canh hát, một đêm hát quan họ, từ khởi đầu đến kết thúc và nhấn mạnh vai trò nghệ thuật trữ tình dân gian có ý nghĩa “giải thiêng”, “đối phó” với cấm kỵ Nho giáo: “Cứ theo như lễ nghĩa của ta, thì cái tục đó cũng hơi lạ, nhưng mà cũng hay hay, cũng chả phải là một cái tội nặng gì, các cô vùng này có lẽ vì thế mà yêu mến sự học hát. Phong tục giản dị khiến các cô khỏi phải những cái lễ nghĩa rắc rối nó bó buộc mà các cô vẫn giữ nguyên được cái tính tự nhiên và dĩnh ngộ, là cái đặc sắc của con gái vùng Lim. Không kể một lối hát hay như quan họ đã làm cho cái đợi nhạt nhẽo và cặm cụi của dân quê ta được thêm phần vui vẻ” (Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng Giang. Phong hóa, 1933)… Lại còn các bài của Văn Tứ với "Tôi đi xem hội Lim" (1933), Hoài Đông với "Hội đồi Lim" (1933) tiếp tục tái hiện quang cảnh tổ chức hội hè, lề lối ca hát, diễn xướng và đi sâu phân tích ý nghĩa, cái hay cái đẹp của lời ca quan họ.
Với số lượng khoảng vài ba chục bài nhưng du ký về Bắc Ninh cho thấy đặc tính vùng quê tích hợp nhiều phương diện văn hóa khác nhau (con người và tự nhiên, dân gian và bác học, truyền thống và hiện đại…), thể hiện toàn cảnh đời sống văn hóa giai đoạn đầu thế kỷ XX (nền giáo dục mới và nhu cầu khảo cứu văn hóa quá khứ, kết hợp nâng cao tri thức sách vở và du ngoạn, học tập, giải trí…), thu nạp nhiều tri thức văn hóa (không gian tự nhiên và tổ chức làng xóm, đình chùa, mỹ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa…). Nhìn rộng ra, tác phẩm du ký viết về Bắc Ninh giúp người bốn phương cùng “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, lưu giữ ký ức một thời cho mai sau…
Bắc Ninh













Ý kiến bạn đọc (0)