
Tranh dân gian Đông Hồ ra đời từ đời sống của người dân vùng Kinh Bắc, gắn với những mùa Tết xưa và sinh hoạt làng quê Bắc Bộ. In trên giấy dó quét điệp, sử dụng màu từ thiên nhiên như vỏ sò, lá cây, tro than, mỗi bức tranh là lát cắt đời sống mộc mạc, phản ánh ước vọng no đủ, yên bình và hài hòa.

Làm tranh Đông Hồ là một quá trình công phu và kéo dài, đòi hỏi sự kiên nhẫn gần như tuyệt đối của người thợ. Ngay từ khâu chuẩn bị, giấy dó phải được chọn kỹ: giấy phải đủ dai, đủ thấm, được phơi đúng nắng để giữ được độ bền và độ bắt màu. Màu sắc in tranh hoàn toàn lấy từ thiên nhiên, từ vỏ sò điệp, lá cây, than tre…, được pha chế thủ công và phụ thuộc rất lớn vào thời tiết cũng như kinh nghiệm của người làm. Chỉ cần nắng quá gắt hoặc độ ẩm kéo dài, cả mẻ giấy có thể hỏng, màu in không đạt được độ trong và bền như mong muốn. Chính sự cầu kỳ và bấp bênh ấy khiến việc làm tranh không chỉ tốn nhiều thời gian mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó trở thành một kế sinh nhai ổn định trong nhịp sống hiện đại.

Từ một làng nghề từng đông đúc với 17 dòng họ cùng làm tranh, Đông Hồ hôm nay chỉ còn lại hai gia đình thuộc hai dòng họ Nguyễn Hữu và Nguyễn Đăng kiên trì bám nghề, trong đó có gia đình nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Oanh. Giữa những đổi thay của làng quê, tiếng đục ván, mùi hồ nếp, sắc màu điệp vẫn hiện hữu, nhưng chậm rãi và thưa vắng hơn xưa, như nhịp sống đã lắng lại. Khi người trẻ rời làng để tìm những lựa chọn dễ sống hơn, nghề tranh dần thu hẹp trong vài mái hiên quen thuộc. Ở đó, vẫn có những con người lặng lẽ in từng tờ tranh bằng tay, không chỉ để mưu sinh mà còn để giữ cho nhịp nghề chưa dứt hẳn, để câu chuyện về tranh Đông Hồ tiếp tục được nối dài trong đời sống hôm nay.



Dòng kí ức của ông Hoa vẫn in đậm những mùa tranh Tết tất bật, thức dậy từ tờ mờ sáng, gánh tranh đi khắp nơi. Dẫu vất vả, Đông Hồ trong hồi ức của ông vẫn yên bình với sân phơi giấy trắng, tiếng giã điệp vang đều, và những câu chuyện gọi nhau qua hàng rào thấp. Khi chiến tranh và những năm tháng kinh tế khó khăn khiến nghề dần thưa vắng, ông Hoa cũng như bao trai làng khác phải làm thêm nhiều công việc để kiếm thêm thu nhập, lo toan cho gia đình.
“Vì có những lúc đầu ra sản phẩm chưa đáp ứng nên cả gia đình không thể sống bằng nghề tranh được. Nên có thể bố, mẹ hay vợ mình thì ở nhà làm tranh được nhưng mình phải chuyển sang làm nghề khác. Mình cũng phải cố gắng lấy cái nọ nuôi cái kia. Những người làm nghề có tuổi hoặc phụ nữ thì ở nhà giữ nghề còn một số nam thanh niên thông thường là phải tạm thời chuyển sang nghề khác”
Dù thời thế có đổi thay xoay vần, ngọn lửa yêu nghề của ông Hoa chưa bao giờ tắt. Những lúc rảnh rỗi, ông lại cùng mọi người làm tranh.

Ông chia sẻ rằng, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tranh Đông Hồ ngày càng được quảng bá rộng rãi, có cơ hội tiếp cận công chúng trong và ngoài nước. Cũng từ đó, qua các buổi giao lưu, triển lãm và những cuộc gặp gỡ văn hóa, ông lặng lẽ đưa những lớp màu dân gian ra khỏi lũy tre làng, mang theo tranh và câu chuyện của làng nghề đến với thế hệ trẻ và bạn bè quốc tế. Trước mỗi chuyến đi, ông luôn chuẩn bị cẩn thận, để mỗi bức tranh, mỗi câu chuyện được sẻ chia bằng niềm tự hào và sự trân trọng.

Trong khi ông Hoa mang những lớp màu ra khắp nơi, bà Oanh vẫn miệt mài bên giấy dó, từng nét in, từng mẻ màu đều được chăm chút kỹ lưỡng. Họ đồng hành âm thầm với nhau: ông đi kết nối và giới thiệu tranh Đông Hồ, còn bà giữ gìn và truyền lửa trong từng bàn tay, từng thế hệ nối tiếp.
“Rất tự hào vì mình đã gìn giữ được nghề truyền thống của cha ông. Tranh đông hồ không chỉ là truyền thống của cha ông mà còn là di sản của quê hương đất nước. Đôi khi nghề thu nhập chưa cao lắm nhưng làm nghề cũng có những niềm vui lớn đặc biệt là mình được mang một trong những nét đẹp của Việt Nam mang ra giao lưu với văn hóa của bạn bè quốc tế” (Bà Oanh chia sẻ)

Không những thế mỗi bức tranh còn là sợi dây nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái cũ và những sáng tạo mới của thế hệ trẻ. Từng nét in, từng lớp màu trên giấy dó lặng lẽ nối dài câu chuyện Đông Hồ. Vợ chồng ông Hoa – bà Oanh không chỉ gìn giữ nghề, mà còn truyền ngọn lửa ấy cho những bàn tay trẻ, để màu vẫn sống, ký ức vẫn thở, và nhịp nghề tiếp nối qua từng thế hệ.

Sinh ra ở Đông Hồ, chị Phương lớn lên khi những mùa tranh Tết rộn ràng đã dần lùi vào ký ức. Tranh dân gian không còn phủ kín sân phơi mỗi độ cuối năm, mà hiện diện lặng lẽ trong ký ức của những người ở lại.
Tranh Đông Hồ đi vào tâm thức của chị một cách tự nhiên , như một phần quen thuộc của làng quê. Mãi đến khi trở thành con dâu của gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa - Nguyễn Thị Oanh, chị mới thực sự bước vào nghề. Mối duyên với nghề làm tranh Đông Hồ đến với chị không bằng một quyết định dứt khoát, mà bằng những buổi ngồi in tranh bên mẹ chồng, những lần pha màu, phơi giấy theo nhịp sinh hoạt quen thuộc của gia đình. Ban đầu là những công đoạn giản dị nhất: in tranh nhỏ, học cách đặt khuôn, căn lực tay, rồi dần dần hiểu ý nghĩa từng bức tranh, từng lớp màu. Qua năm tháng, từ những việc tưởng chừng lặp lại ấy, chị học cách cảm tranh bằng tay, bằng mắt và bằng sự kiên nhẫn.

Theo chị Phương, tranh chỉ thật sự đẹp khi người làm đặt vào đó tình yêu và sự tâm huyết. Nghề không phải là điều có thể gượng ép hay bắt buộc, bởi cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác, chỉ khi người làm “thả hồn” vào từng công đoạn, từng lớp màu, bức tranh mới có đời sống riêng và mang được cái hồn vốn có của nó.
Giữa nhịp sống hiện đại, khi mưu sinh là điều không thể né tránh, chị Phương giữ nghề theo cách của thế hệ mình: không áp đặt, không ồn ào. Vừa làm thêm những công việc khác để đảm bảo cuộc sống, chị vẫn đều tay với tranh Đông Hồ như một phần không thể tách rời của sinh hoạt thường ngày. Nghề không đứng tách biệt, mà lặng lẽ song hành cùng đời sống.
Niềm vui lớn nhất với chị là khi tranh dân gian dần trở lại trong đời sống hôm nay – qua những lớp học trải nghiệm, những không gian trưng bày, hay những bức tranh được chọn làm quà tặng, trang trí. Với chị, tranh Đông Hồ là một cầu nối lặng lẽ giữa quá khứ và hiện tại. Tuy vậy, chị Phương vẫn giữ quan điểm nhẹ nhàng về việc nối nghề.
“Mình sẽ tôn trọng lựa chọn của con. Nghề này là đam mê và tình yêu với tranh, không ai bắt buộc ai cả. Chỉ mong con hiểu và trân trọng giá trị của nghề, còn việc có tiếp nối hay không là do con tự quyết.”
Không coi việc nối nghề là trách nhiệm buộc phải gánh vác, chị Phương để nghề được truyền đi một cách tự nhiên. Nghề ở lại khi có người hiểu, người yêu và sẵn sàng ngồi xuống với giấy dó, với màu điệp.

Trong nhịp sống hiện đại, khi nhiều giá trị truyền thống dễ bị lấn át, việc gìn giữ và lan tỏa tranh Đông Hồ không chỉ là bảo tồn một nghề thủ công, mà còn là giữ lại tri thức, ký ức và hồn cốt văn hóa của một vùng quê. Khi nghề mai một, thứ mất đi không chỉ là sinh kế, mà còn là mạch nối giữa các thế hệ. Chính vì vậy, những bàn tay vẫn kiên trì in từng tờ tranh, truyền lại từng lớp màu, từng kinh nghiệm thủ công, đã góp phần giữ cho tinh thần Đông Hồ tiếp tục hiện diện trong đời sống hôm nay. Trong bối cảnh nghệ thuật không ngừng sáng tạo và biến đổi, tranh Đông Hồ được hồi sinh qua nhiều thiết kế hiện đại lấy cảm hứng từ chất liệu dân gian.
Trong nhịp sống hiện đại, khi nhiều giá trị truyền thống dễ bị lấn át, việc gìn giữ và lan tỏa tranh Đông Hồ không chỉ là bảo tồn một nghề thủ công, mà còn là giữ lại tri thức, ký ức và hồn cốt văn hóa của một vùng quê. Khi nghề mai một, thứ mất đi không chỉ là sinh kế, mà còn là mạch nối giữa các thế hệ. Chính vì vậy, những bàn tay vẫn kiên trì in từng tờ tranh, truyền lại từng lớp màu, từng kinh nghiệm thủ công, đã góp phần giữ cho tinh thần Đông Hồ tiếp tục hiện diện trong đời sống hôm nay. Trong bối cảnh nghệ thuật không ngừng sáng tạo và biến đổi, tranh Đông Hồ được hồi sinh qua nhiều thiết kế hiện đại lấy cảm hứng từ chất liệu dân gian.
Đòi hỏi các nhà sáng tạo trẻ phải có hiểu biết đúng đắn, để tranh dân gian không chỉ được làm mới, mà còn được sống đúng tinh thần — như một cách tiếp nối và tri ân công lao của các thế hệ đi trước.

Ý kiến bạn đọc (0)