Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh thảo luận ở tổ về 3 dự án luật
BẮC NINH - Chiều 31/10, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận ở tổ, cho ý kiến vào 3 Dự án: Luật An ninh mạng; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự. Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh có 6 đại biểu tham gia góp ý nhiều nội dung của 3 dự án luật.
![]() |
|
Các đại biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Đại biểu cơ bản nhất trí với các tờ trình và báo cáo thẩm tra về sự cần thiết của 3 dự án luật nhằm kịp thời quán triệt, thể chế các chủ trương, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng về an ninh trật tự, an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới. Đồng thời, các đại biểu cũng tham góp nhiều ý kiến xác đáng để cơ quan soạn thảo tiếp tục hoàn thiện 3 dự án luật bảo đảm tính khả thi cao.
Góp ý vào dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi), đại biểu Leo Thị Lịch, Ủy viên chuyên trách Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho rằng cần quy định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước trong hồ sơ lưu trữ tại địa phương. Hiện nay hệ thống chính quyền địa phương 2 cấp đang vận hành hoạt động trên hệ thống mạng LAN. Nguồn lực để đầu tư cho bảo đảm an ninh mạng cũng là vấn đề đặt ra. Vì vậy, cần tiếp tục rà soát, đánh giá tác động của việc thực hiện bảo vệ bí mật nhà nước thời gian qua để xây dựng các quy định trong quản lý bí mật nhà nước đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số theo các cấp chính quyền và ở các cơ quan, đơn vị trong điều kiện hiện nay.
![]() |
|
Đại biểu Leo Thị Lịch phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội kiến nghị: Tại khoản 3, Điều 4 quy định: “Có cơ chế đặc thù, chính sách ưu đãi để huy động, thu hút và sử dụng nhân tài trong lĩnh vực an ninh mạng”. Ban soạn thảo cần rà soát vì Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã quy định khá đầy đủ về nội dung này với những chính sách rất đột phá nhằm thu hút và sử dụng nguồn nhân lực phát triển khoa học công nghệ, trong đó có lĩnh vực an ninh mạng. Ban soạn thảo nghiên cứu, có thể dẫn chiếu đến Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trường hợp quy định với cấp độ ưu đãi cao hơn thì có thể quy định tại luật này.
Đề nghị tại Điều 20 quy định về đối tượng được bảo vệ trên không gian mạng, bên cạnh đối tượng là trẻ em, cần bổ sung một số đối tượng gồm: Người già, phụ nữ, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người sống trong vùng sâu, vùng xa.
![]() |
|
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Tại Điều 40 về nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, dự thảo luật quy định cụ thể các nội dung. Đại biểu đề nghị không nên quy định cụ thể như vậy vì khoa học công nghệ liên tục thay đổi với những nội dung rất mới, chỉ cần nêu theo hướng quy định chính sách của nhà nước đối với hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân, người có liên quan được quyền nghiên cứu phát triển an ninh mạng sẽ phù hợp hơn.
Cùng cho ý kiến vào dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi), Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn cho biết, tại Điều 7 quy định phạm vi bí mật nhà nước có 13 lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, trong 13 lĩnh vực cụ thể này có những quy định chung chung, thiếu sự định lượng, như vậy sẽ dễ dẫn đến hệ quả khó quản lý chặt chẽ, cơ quan có thẩm quyền xác định độ mật của tài liệu nhiều khi lúng túng hoặc lạm dụng độ mật, gây khó khăn cho người tiếp nhận, sử dụng. Đề nghị phải định lượng thật cụ thể về độ mật để quản lý chặt chẽ, tránh sự lúng túng hoặc lạm dụng việc xác định độ mật trong sử dụng tài liệu. Đồng thời, cần rà soát, đối chiếu với các luật khác để vừa bảo đảm độ mật, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch về thông tin.
![]() |
|
Đại biểu Trần Văn Tuấn phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Tại Điều 19 quy định thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước về hoạt động có thể rút ngắn hơn theo quy định nhưng không quy định rõ cơ quan nào, cá nhân nào có quyền có thể rút ngắn thời hạn này. Đề nghị cần bổ sung thêm 1 khoản quy định rõ “Người đứng đầu, cấp phó được ủy quyền của người đứng đầu của cơ quan, tổ chức xác định độ mật nhà nước có thẩm quyền xác định thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước có thể ngắn hơn thời hạn theo quy định.”
Góp ý vào dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân cho biết: Tại khoản 1, Điều 2 của dự thảo (bổ sung khoản 22, Điều 8 của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam) bổ sung loại thị thực UD1 cấp cho người nước ngoài thuộc diện ưu đãi theo quy định của Luật Công nghiệp công nghệ số. Tuy nhiên, việc bổ sung thị thực UD1 lại không đi kèm với các tiêu chí rõ ràng để xác định cụ thể người nước ngoài nào thuộc diện ưu tiên, ưu đãi; không có các tiêu chí, tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc quy mô dự án mà người nước ngoài làm việc... sẽ gây khó khăn cho cơ quan xét duyệt, dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất giữa các địa phương, dễ phát sinh tùy tiện và làm giảm hiệu quả việc thu hút nhân tài chất lượng cao vào lĩnh vực này.
![]() |
|
Đại biểu Trần Thị Vân phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Đại biểu đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 2 của Dự thảo (sửa đổi Điều 8) với nội dung: “Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí xác định người nước ngoài thuộc diện ưu đãi UD1, bao gồm: (1) Lĩnh vực hoạt động ưu tiên; (2) Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm; (3) Quy mô và tính chiến lược của các dự án đầu tư; (4) Đóng góp cho chuyển giao công nghệ và phát triển công nghiệp công nghệ số.” Như vậy sẽ bảo đảm tính thống nhất, minh bạch, sàng lọc đúng đối tượng chuyên gia chiến lược, phù hợp với thực tế quản lý và định hướng phát triển kinh tế số.
Tại khoản 9, Điều 4 (sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 30 của Luật Cư trú) quy định trách nhiệm thông báo lưu trú trên phương tiện: "Chủ sở hữu phương tiện hoặc người được giao quản lý phương tiện có trách nhiệm thông báo lưu trú”. Đại biểu cho rằng khái niệm "phương tiện" là quá rộng và không rõ ràng, có thể bao gồm cả tàu du lịch, xe khách đường dài, xe camper van, xe tải....Yêu cầu tất cả chủ phương tiện phải thông báo lưu trú là không khả thi và tạo gánh nặng quản lý rất lớn.
Đại biểu đề nghị cần chỉ rõ loại phương tiện nào phải thực hiện thông báo lưu trú (ví dụ: tàu du lịch lưu trú qua đêm, phương tiện cho thuê để ở như nhà di động...). Đồng thời, quy định cơ chế thông báo đơn giản, hiệu quả ,ví dụ thông báo qua ứng dụng VNeID thay vì yêu cầu khai báo trực tiếp tại cơ quan công an để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn và giảm gánh nặng thủ tục cho người dân, doanh nghiệp.
Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ (Điều 7), khoản 1 (sửa đổi điểm h, khoản 1, Điều 7) bổ sung thu thập "hình ảnh khoang chở khách". Đại biểu cho rằng, việc thu thập hình ảnh trong khoang chở khách liên quan trực tiếp đến dữ liệu cá nhân nhạy cảm và quyền riêng tư của hành khách. Nếu không có quy định chặt chẽ, dữ liệu này rất dễ bị rò rỉ, lạm dụng, xâm phạm đến quyền riêng tư của cá nhân.
Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định: “Việc thu thập, lưu trữ, khai thác, sử dụng dữ liệu hình ảnh người lái xe, hành khách phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân và chỉ được sử dụng cho mục đích bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn giao thông.” Nhằm bảo đảm tính đồng nhất với Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Hoặc thiết kế nội dung quy định thể hiện rõ mục đích, thời gian lưu trữ và cơ chế truy cập dữ liệu. Cụ thể: (1) Dữ liệu hình ảnh khoang chở khách chỉ được sử dụng cho mục đích bảo đảm an ninh, an toàn giao thông và phòng, chống tội phạm, không được khai thác cho mục đích thương mại. (2) Thời gian lưu trữ tối đa, phương thức mã hóa, bảo mật và cơ quan có thẩm quyền được truy cập các dữ liệu này.
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà (Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh) đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật An ninh mạng quy định cụ thể về cơ chế huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho các chương trình đào tạo, nghiên cứu và phát triển sản phẩm an ninh mạng, nhằm bảo đảm tính khả thi và bền vững của chính sách. Đồng thời, cần có chính sách bảo vệ và khuyến khích doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển sản phẩm, dịch vụ an ninh mạng, góp phần giảm sự phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
![]() |
|
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Khoản 2, Điều 48 dự thảo luật quy định: Kinh phí bảo vệ an ninh mạng của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị phải bảo đảm tối thiểu 10% trong tổng kinh phí triển khai đề án, dự án, chương trình, kế hoạch đầu tư, ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin.
Đại biểu cho rằng, quy định này thể hiện sự ưu tiên và quan tâm cho an ninh mạng, tuy nhiên với tỷ lệ phần trăm cố định có thể không phù hợp với tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị vì nhu cầu sử dụng, mức độ rủi ro an ninh mạng có thể khác nhau giữa các cơ quan, đơn vị và việc áp dụng một tỷ lệ cứng nhắc (trên 10%) có thể dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả hoặc gây ra những khó khăn về tài chính.
Tại điểm d khoản 1, điểm e khoản 5, Điều 7 quy định phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước về chính trị, kinh tế- xã hội gồm “thông tin có tác động tiêu cực đến tình hình chính trị”; “thông tin có tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội.” Đại biểu cho rằng việc sử dụng cụm từ "tác động tiêu cực" có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến sự thiếu nhất quán trong việc xác định và áp dụng.
Đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ ràng hơn các tiêu chí, mức độ và phạm vi của "tác động tiêu cực" đến tình hình chính trị và kinh tế - xã hội. Đồng thời, cần quy định rõ quy trình phân loại bí mật nhà nước bảo đảm chặt chẽ, minh bạch để những thông tin thực sự cần thiết và có nguy cơ gây hại rõ ràng, nghiêm trọng mới được xếp vào danh mục bí mật nhà nước nhằm cân bằng giữa yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước với quyền được cung cấp thông tin của công dân.
Tại điểm a, khoản 11 quy định phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước về thông tin tổ chức cán bộ gồm: “Chiến lược, kế hoạch, đề án về công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; chiến lược, kế hoạch, đề án về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội”. Đại biểu cho rằng việc quy định "chiến lược, kế hoạch, đề án về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội" thuộc phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước về thông tin tổ chức cán bộ chỉ phù hợp trong một giai đoạn nhất định nếu các thông tin, định hướng còn chưa rõ ràng, chính thức có thể tác động tiêu cực đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Mặt khác, theo quy định tại Điều 33 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và các chính sách khác đều phải được công khai và lấy ý kiến rộng rãi Nhân dân. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét và quy định cụ thể về nội dung này để vẫn bảo đảm an ninh, an toàn thông tin và đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng chính sách.
Góp ý vào dự án Luật An ninh mạng, đại biểu Nguyễn Văn Thi cơ bản nhất trí với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại: Đề nghị rà soát và bổ sung đầy đủ các hành vi bị nghiêm cấm, đặc biệt là hành vi sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo dựng, chỉnh sửa, lan truyền thông tin sai sự thật; giả mạo danh tính nhằm vu cáo, lừa đảo làm tổn hại uy tín lãnh đạo và an ninh quốc gia; bổ sung 1 khoản trong dự thảo luật quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng phải định danh địa chỉ internet đối với từng khách hàng để quản lý.
![]() |
|
Đại biểu Nguyễn Văn Thi phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 31/10. |
Đại biểu cũng đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, làm rõ và hoàn thiện một số quy định để bảo đảm tính hiệu quả và khả thi. Tại điểm c khoản 2 Điều 9: Nghiêm cấm các hành vi "cố ý nghe lén, ghi âm, ghi hình trái phép các cuộc đàm thoại trên không gian mạng". Vậy, ngoài các cuộc đàm thoại thì các hành vi xem lén các văn bản, tin nhắn, hình ảnh,... trao đổi trên không gian mạng thế nào? Đề nghị nghiên cứu bổ sung các hành vi cho đầy đủ.
Về việc quản lý gửi thông tin trên mạng, tại khoản 2, Điều 28: "Tổ chức, cá nhân không được gửi thông tin mang tính thương mại vào địa chỉ điện tử của người tiếp nhận khi chưa được người tiếp nhận đồng ý hoặc khi người tiếp nhận đã từ chối, trừ trường hợp người tiếp nhận có nghĩa vụ phải tiếp nhận thông tin theo quy định của pháp luật". Đề nghị làm rõ thế nào là "thông tin mang tính thương mại" bởi phần giải thích từ ngữ không có thuật ngữ này nên không rõ quy định trên nhằm chống việc gửi các thư rác quảng cáo hay nhằm bảo vệ tổ chức cá nhân có "thông tin mang tính thương mại".
Bắc Ninh























Ý kiến bạn đọc (0)