Lính sinh viên - Thắp sáng thời hoa lửa
Chiến trường giục giã bước hành quân
Từ năm 1969 đến năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn khẩn trương. Nhu cầu chi viện quân cho chiến trường trở nên cấp bách. Hơn 10 nghìn sinh viên ở các trường đại học đã lên đường, tiếp quân cho chiến trường miền Nam (trong đó có hàng trăm người quê Bắc Giang).
![]() |
|
Những người lính Bắc Giang từng là sinh viên các trường đại học ôn lại kỷ niệm chiến trường. |
Họ là sinh viên các trường: Y, Dược, Tổng hợp, Bách khoa, Xây dựng, Sư phạm, Thủy lợi, Giao thông… Có người mới học xong năm thứ nhất, có người sắp tốt nghiệp. “Phải lấy đến cả sinh viên chúng mình, chứng tỏ chiến trường lúc ấy đã gấp gáp lắm rồi”- ông Thân Quang Hoạt, Chủ tịch Hội Chiến sĩ Thành cổ 1972 TP Bắc Giang xúc động kể lại.
Là lứa sinh viên Đại học Xây dựng lên đường chiến đấu theo Lệnh tổng động viên 1971-1972, ông Hoạt không thể nào quên được hình ảnh những chàng trai mặc áo lính, nườm nượp lên tàu từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) đến ga Sen Hồ (Việt Yên), Kép (Lạng Giang) ngược lên vùng Tứ Sơn, Mai Sưu (Lục Nam); Chàng, Hương Mai (Việt Yên) để luyện quân rồi vào thẳng chiến trường mà gia đình chưa hề biết tin.
Trên những chuyến tàu ấy có vô vàn lá thư viết vội được ném xuống đường kèm theo mảnh giấy nhờ chuyển hộ đến gia đình. Ông Hoạt cho biết: “Dù phải dừng lại việc học tập, nhưng khi đất nước cần, chúng tôi ai cũng tràn đầy khí thế. Rời mái trường lên đường ra trận, nhiều người không quên đem theo một vài cuốn sách, giấy bút, sổ tay làm nhật ký như một thói quen của đời sinh viên”.
Vừa hết kỳ 1 năm thứ ba khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 1, cũng giống như bao sinh viên ngày đó, ông Nguyễn Ngọc Đủ ở phường Lê Lợi (TP Bắc Giang) cũng được huy động vào chiến trường. Lính sinh viên ngày ấy đa số được biên chế vào các đơn vị chiến đấu ở mặt trận Bình - Trị - Thiên, nhưng nhiều nhất vẫn là chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 1972. “Tôi biên chế vào một đơn vị tên lửa. Được Đảng, Nhà nước cho ăn học, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng nên luôn lạc quan, tràn đầy khí thế, niềm tin chiến thắng”, ông Đủ cho biết.
Bâng khuâng nhớ lại những năm tháng trên chiến trường, ngày túc trực, đêm hành quân, ông Đủ kể: “Đi trên những chiếc xe zin 3 cầu, mặc cho bom đạn vần vũ, ầm ầm trên đầu nhưng lòng luôn phơi phới, yêu đời lắm, hát hò, làm thơ suốt dọc đường hành quân. Sau khi chiến đấu, nhiều người còn tranh thủ viết nhật ký chiến trường”.
Là một trong số những người bị thương, ông Đỗ Huy Dư ở phường Mỹ Độ (TP Bắc Giang) - sinh viên Đại học Nông nghiệp 1 không thể nào quên một mùa hè đỏ lửa. “Thời điểm năm 1971, đê sông Đuống bị vỡ. Nhưng chiến trường miền Nam đang gấp gáp, không thể chần chừ, chúng tôi buộc phải di chuyển bằng thuyền. Gian nan vất vả nhưng không làm ai chùn bước.
Các loại pháo mặt đất bắn phá không ngừng. Đạn càng bắn rát, bộ đội ta càng kiên cường bám trụ. Tranh thủ ngưng tiếng bom, tiếng súng lại ăn tạm miếng lương khô, uống nước sông Thạch Hãn”, ông Dư kể lại.
Động lực vươn lên
Ngày lên đường, tất cả chung lời hẹn ước, đợi ngày đất nước thống nhất sẽ quay lại ghế giảng đường, tiếp tục sự nghiệp học hành, trau dồi kiến thức, xây dựng đất nước. Thế nhưng hòa bình, niềm vui, niềm hạnh phúc của ngày hội ngộ không thể trọn vẹn. Người trở về lành lặn, nhưng cũng có không ít người bị thương và còn đó bao người nằm lại “mãi mãi tuổi hai mươi”.
|
Tạm xa mái trường, những người lính sinh viên làm quen với súng đạn, những đêm hành quân. Họ có mặt trên khắp các trận tuyến khốc liệt nhất, từ Thành cổ Quảng Trị đến chiến trường Đông Nam Bộ, tham gia giải phóng Buôn Ma Thuột, rồi tiến vào Sài Gòn giải phóng miền Nam. |
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, phần lớn các chiến sĩ - sinh viên được trở lại trường học tập, thực hiện những ước mơ trên giảng đường dang dở năm xưa để trở thành kỹ sư, cử nhân, bác sĩ... Những người lính sinh viên quê Bắc Giang đã phấn đấu, rèn luyện, trở thành cán bộ có vị trí cao trong xã hội.
Đơn cử như ông Hoàng Thanh Khiết, sinh viên Đại học Kinh tế - Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế quốc dân), nguyên Phó Chánh Văn phòng Thường trực Văn phòng T.Ư Đảng; GS.TS Dương Xuân Ngọc, sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, nguyên Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Trung tướng Vũ Văn Luận, Đại học cơ điện Bắc Thái, nguyên Cục trưởng Cục cán bộ (Bộ Quốc phòng); GS.TS Đỗ Văn Thống, Đại học Tổng hợp Hà Nội, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí lý luận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…
Dù ở vị trí, cương vị nào thì điểm chung nhất của thế hệ những người lính sinh viên vẫn là bản lĩnh, phẩm chất, nhân cách “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Chất thép và tinh thần chiến đấu của mỗi người lính năm xưa vẫn luôn là động lực để mỗi người sống, học tập, lao động hết mình trong đời thường hôm nay.
Bài, ảnh: Thu Phong
Bắc Ninh


















Ý kiến bạn đọc (0)