Tàu Ma-đốc Mỹ tháo chạy như thế nào?
![]() |
|
Đại tá Nguyễn Xuân Bột, nguyên Thuyền trưởng tàu 333. |
Ở tuổi 85, mái tóc bạc trắng, Đại tá, cựu chiến binh(CCB) Nguyễn Xuân Bột (trong ảnh) vẫn "phong độ", hoạt bát và minh mẫn. Cuối năm 1949, tròn 20 tuổi, anh thanh niên Nguyễn Xuân Bột, ở thôn Cuối, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên (Nam Định) tình nguyện lên đường nhập ngũ, về công tác tại Tỉnh đội Nam Định, sau đó được điều động sang Trung đoàn 64, Sư đoàn 320, tham gia chiến đấu hàng chục trận phục kích, đánh đồn giặc Pháp ở khắp vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ và từng là Chiến sĩ thi đua của Sư đoàn 320 trong phong trào thi đua giết giặc lập công (1952-1953)...
Năm 1956, Nguyễn Xuân Bột được đơn vị cử đi học tại Trường sĩ quan Hải quân khóa 1. Đầu những năm 60, khi Liên Xô giúp Việt Nam 12 chiếc tàu phóng lôi và cử chuyên gia trực tiếp sang huấn luyện, Trung úy Nguyễn Xuân Bột được bổ nhiệm chức vụ Thuyền trưởng tàu 333, kiêm Phân đội trưởng Phân đội 3, Tiểu đoàn 135.
CCB Nguyễn Xuân Bột hồ hởi kể: Đêm 31-7, rạng sáng ngày 1-8-1964, tàu Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển Quảng Bình, sau đó tiến lên phía bắc, hoạt động gần bờ dọc vùng biển từ Vĩnh Linh đến Thanh Hóa để điều tra mạng lưới bố phòng của ta. Đơn vị chúng tôi đang diễn tập bắn ngư lôi ở vùng biển đông bắc, thì 19 giờ ngày 1-8, nhận được lệnh của cấp trên cơ động về gấp cảng Vạn Hoa (Quảng Ninh) làm công tác chuẩn bị, lắp ngư lôi đi chiến đấu...
Đến 0 giờ 15 phút ngày 2-8, Phân đội 3 tàu phóng lôi chúng tôi gồm ba tàu: 333, 336, 339 được lệnh bí mật rời cảng, hành quân vào Hòn Nẹ (Thanh Hóa) để phục kích tàu địch. Vì gió đông bắc, biển động, cho nên đến 8 giờ 30 phút ngày 2-8, Phân đội 3 mới tới Hòn Nẹ. Tại đây có hai tàu tuần tiễu T142 và T146, do đồng chí Trần Đình Chỉ, Phân đội trưởng Phân đội 4 chỉ huy, đang neo đậu ở tây nam đảo.
Phân đội tàu của chúng tôi vào thả neo theo đội hình phòng không ở phía nam Hòn Nẹ một hải lý. Đến 10 giờ 30 phút, được cấp trên giao nhiệm vụ cơ động vào Hòn Mê ngay, tôi chỉ huy các tàu của Phân đội nhanh chóng thu neo và cơ động chặng đường hơn 50 hải lý vào Hòn Mê. Hai tàu tuần tiễu T142 và T146 cũng được lệnh đi cùng ba tàu phóng lôi.
13 giờ 30 phút ngày 2-8, tàu khu trục Ma-đốc Mỹ xâm phạm khu vực Hòn Mê - Lạch Trường, cách Hòn Mê chín hải lý, Sở chỉ huy tiền phương lệnh cho biên đội tàu tuần tiễu xuất kích đến khu vực tàu địch đang hoạt động. 20 phút sau, Phân đội 3 cũng được lệnh xuất kích, đến 14 giờ 10 phút thì đuổi kịp các tàu tuần tiễu, sau đó các tàu phóng lôi tăng tốc vượt lên trước tìm tàu của địch. Do tốc độ chậm hơn và thông tin liên lạc không bảo đảm, cho nên các tàu tuần tiễu không đến kịp để phối hợp cùng các tàu phóng lôi chiến đấu.
Khi phát hiện tàu Ma-đốc ở khoảng cách hơn 13 hải lý, tôi chỉ huy các tàu của Phân đội tăng tốc tiếp cận mục tiêu. Tàu khu trục địch thấy có ba tàu tốc độ cao đang tiếp cận thì cũng tăng tốc chạy ra xa. Khi các tàu của ta còn cách sáu hải lý, thì tàu địch dùng pháo cỡ lớn 127mm bắn dồn dập vào đội hình tàu ta.
Mặc cho địch bắn pháo ngăn chặn dữ dội, các tàu của ta vẫn dũng cảm vừa vận động theo hình chữ chi tránh đạn, vừa nhanh chóng rút ngắn cự ly chiếm lĩnh vị trí có lợi để công kích ngư lôi. Tôi chỉ huy tàu 333 tăng vận tốc chặn tàu địch lại, tạo điều kiện thuận lợi để hai tàu 336 và 339 tiến công; đồng thời ra lệnh cho chỉ huy tàu 336 và 339 chọn góc mạn và cự ly tốt nhất để phóng ngư lôi...
Khi tàu 339 tiếp cận được góc 110 độ mạn phải tàu khu trục địch, cự ly 10 liên(1 liên = 185,2m), pháo thủ 14,5 mm bắt đầu phát hỏa về phía tàu địch. Vào đến cự ly 7 liên, đồng chí Nguyễn Văn Giản, Thuyền trưởng tàu 339 hạ lệnh phóng ngư lôi tiêu diệt địch và chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến.
Lúc này xuất hiện năm máy bay địch lao đến tập kích, một quả rốc- Két bắn trúng khoang máy chính làm pháo thủ 14,5 mm và chiến sĩ cơ điện hy sinh; tàu 339 phải thả trôi cách tàu địch khoảng ba hải lý vừa tập trung dập lửa, sửa chữa hỏng hóc vừa chiến đấu đánh trả máy bay địch.
Tàu 336 tiếp tục tiếp cận ở góc mạn phải tàu địch 110 độ đến 120 độ, cự ly khoảng 6 liên thì phóng ngư lôi, sau đó chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến. Ngay lúc đó, đạn pháo tàu của địch bắn trúng tàu 336, Thuyền trưởng Phạm Văn Tự và một pháo thủ hy sinh. Mặc dù bị thương, nhưng Thuyền phó Nguyễn Văn Chuẩn vừa chỉ huy chiến đấu, vừa điều khiển tàu cơ động ra khu vực tàu 339 đang thả trôi; hai tàu 336 và 339 tại chỗ dùng súng bộ binh đánh máy bay địch.
Tiếp theo tàu 336, tàu 333 tiếp cận vào vị trí để phóng ngư lôi, nhưng đã bị pháo trên tàu địch bắn chặn dữ dội, khiến cho toàn bộ hệ thống thông tin trên tàu bị hư hỏng, hai mạn tàu bị mảnh đạn xuyên làm cháy thuốc nổ ngư lôi bên mạn trái, khói nghi ngút, tôi phải phóng bỏ.
Mặc dù địch bắn như vãi đạn, trên boong tàu một số người bị thương nhẹ, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn quyết tâm chiến đấu. Tôi điều khiển tàu 333 vượt qua làn đạn, đến cự ly 5 đến 6 liên, tôi lệnh cho pháo thủ 14,5mm bắn quét lên boong tàu địch; vào đến vị trí công kích ở góc mạn phải tàu địch 80 độ, cự ly 6 liên thì phóng ngư lôi. Sau đó, tôi vừa điều khiển tàu rời khu vực tác chiến, vừa chỉ đạo pháo thủ 14,5mm tiếp tục bắn quét lên mặt boong tàu địch. Tàu khu trục Ma-đốc bốc khói, chuyển hướng tháo chạy ra vùng biển quốc tế...
Ngay lúc đó, bốn máy bay địch tiếp tục lao đến tiến công các tàu của Phân đội 3. Tàu 333 và 336 vừa cơ động vừa nổ súng đánh trả. Cán bộ, chiến sĩ tập trung hỏa lực bắn cháy một máy bay địch rơi ngay xuống biển và bắn bị thương một chiếc khác; hai chiếc còn lại vội rời khỏi khu vực chiến đấu...
"Đây là lần đầu tiên Hải quân ta ra quân chiến đấu trực tiếp với tàu chiến lớn và nhiều máy bay hiện đại của đế quốc Mỹ. Với số lượng tàu ít và nhỏ bé, nhiều hạn chế về tính năng kỹ thuật, lại chiến đấu độc lập, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta đã anh dũng tiến công tàu khu trục và đánh trả máy bay địch; khẳng định ý chí dám đánh, quyết đánh và biết cách đánh thắng kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều", CCB Nguyễn Xuân Bột tâm sự.
Sau chiến công đánh thắng trận đầu, Trung úy Nguyễn Xuân Bột được cấp trên bổ nhiệm chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 135; năm 1968, được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Trung đoàn 172. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, trên cương vị Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng Trung đoàn 172, đồng chí Nguyễn Xuân Bột đã trực tiếp chỉ huy Trung đoàn đánh chiếm cảng Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu); phối hợp cùng lực lượng Tỉnh đội Bà Rịa-Vũng Tàu vượt biển ra giải phóng Côn Đảo.
Năm 1976, đồng chí được cấp trên cử đi học tại Học viện Hải quân Liên Xô; năm 1978, khi Lữ đoàn 172 được thành lập, đồng chí được cấp trên bổ nhiệm giữ chức Lữ đoàn phó, sau đó được bổ nhiệm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 172...
Năm 1984, Đại tá Nguyễn Xuân Bột về hưu tại địa phương, song vẫn tích cực tham gia hoạt động xã hội. Với phẩm chất người lính Hải quân-"Bộ đội Cụ Hồ", CCB Nguyễn Xuân Bột đã vận động thành lập Hội CCB Hải quân tỉnh Nam Định, để giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, vận động con cháu và người thân tích cực tham gia xây dựng quê hương, đất nước.
Hằng năm, Đại tá CCB Nguyễn Xuân Bột cùng các CCB tham gia kể chuyện truyền thống cho thanh niên, học sinh nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12), ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của HQNDVN và quân, dân miền bắc (ngày 2 và 5-8)... Năm 2012, thân nhân gia đình liệt sĩ Hải quân ở các tỉnh: Nam Định, Thanh Hóa, Hà Nam và Bắc Giang có hoàn cảnh khó khăn, đề nghị Hội CCB các tỉnh tìm hài cốt liệt sĩ của con em mình.
Mặc dù tuổi cao, khi trái gió, trở trời vết thương cũ tái phát đau nhức, song CCB Nguyễn Xuân Bột vẫn không quản ngại dẫn Đoàn đại diện CCB các tỉnh lặn lội hàng tháng trời vào Cam Ranh (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) tìm được hơn 30 bộ hài cốt liệt sĩ đồng đội hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chiến tranh biên giới tây nam để đưa về quê hương, trong niềm vui mừng, cảm phục của thân nhân các gia đình liệt sĩ và cấp ủy, chính quyền địa phương.
Trước lúc chia tay, Đại tá CCB Nguyễn Xuân Bột cười hiền: Mình tuổi cao, sức yếu rồi, nếu làm được gì có ích cho Đảng, cho dân mình sẽ cố gắng tham gia, sống sao cho "trọn nghĩa nước non, vẹn tình đồng đội".
Theo ND
Bắc Ninh

















Ý kiến bạn đọc (0)