Công khai bản án, quyết định trên mạng Internet: Nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trước phán quyết nhân danh Nhà nước
![]() |
|
TAND tỉnh xét xử bị cáo Đỗ Văn Mẫn (SN 1986) ở thôn Đại Phú 2, xã Phi Mô (Lạng Giang) về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Ảnh: Phương Nhung |
Việc công bố bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đang được dư luận rất quan tâm, nhất là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xin ông cho biết, tại sao phải công bố công khai, việc này có ý nghĩa như thế nào trong lộ trình cải cách tư pháp?
Việc công bố bản án, quyết định là động thái tích cực trong thực hiện cải cách tư pháp nhằm cụ thể hóa nguyên tắc TAND xét xử công khai đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Qua đó giúp người dân thuận lợi tiếp cận, bình luận, đánh giá về phán xét của Nhà nước, về việc tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
TAND hai cấp tỉnh Bắc Giang hiện có 85 thẩm phán (trong đó TAND tỉnh có 14; huyện, TP có 71). Năm 2016, toàn tỉnh giải quyết 6,2 nghìn vụ án các loại, trung bình một thẩm phán giải quyết 73 vụ, trong đó lĩnh vực dân sự có số vụ nhiều nhất và phức tạp nhất. |
Bản án được công bố có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án; nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán trước phán quyết nhân danh Nhà nước.
TAND hai cấp tỉnh Bắc Giang cũng như các đơn vị tòa án toàn quốc đang chờ hướng dẫn của TAND Tối cao về việc công bố bản án, quyết định. Hiện tại, TAND tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo các đơn vị chuẩn bị tốt điều kiện để bảo đảm cho việc thực hiện chủ trương công khai hóa các bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử TAND; chủ động tìm giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng việc viết bản án, trong đó đặc biệt lưu ý đến việc thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm viết bản án đối với các thẩm phán thuộc quyền quản lý.
Như vậy, mỗi tháng, trung bình TAND hai cấp tỉnh Bắc Giang có khoảng bao nhiêu bản án, quyết định phải công khai?
Theo số liệu năm 2016, mỗi tháng có gần 400 bản án, quyết định phải công khai (trừ những bản án, quyết định thuộc diện cấm công khai theo Nghị quyết số 03) gồm: Bản án sơ thẩm giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động không bị kháng cáo, kháng nghị; bản án phúc thẩm; quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại TAND hai cấp đã có hiệu lực pháp luật.
Mỗi bản án, quyết định được công bố sẽ có phần bình luận, nhận xét, đánh giá của người xem. Xin ông cho biết điều này có tác động như thế nào đến đội ngũ thẩm phán của tỉnh?
Thẩm phán phải tự nâng cao trách nhiệm của mình trước nhân dân, phải hoàn thiện năng lực cũng như nghiệp vụ khi xét xử, khi viết bản án mỗi thẩm phán phải cân nhắc, thận trọng trong câu chữ, đánh giá, phân tích, lập luận. Từ các bình luận của người xem, theo tôi đây là kênh thông tin để tòa án đối chiếu, kiểm tra các quy định của pháp luật để biết thẩm phán ban hành bản án, quyết định có phù hợp hay không?.
Nghị quyết quy định các thông tin về tên, địa chỉ của cá nhân, cơ quan, tổ chức và những thông tin khác liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình phải được mã hóa trước khi công bố. Tuy nhiên, tên những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, địa danh hành chính tỉnh, TP trực thuộc T.Ư không được mã hóa mà phải giữ nguyên. Ý kiến của ông về nội dung này?
Việc không mã hóa tên những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của tòa án, thẩm phán trong việc công bố bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Qua đó, Chánh án TAND, Tòa án quân sự trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm tra, giám sát việc công bố bản án.
Quy định không mã hóa địa danh hành chính tỉnh, TP trực thuộc T.Ư là để các cơ quan Nhà nước có được thông tin đầy đủ về kết quả giải quyết những tranh chấp phát sinh tại địa phương và các vấn đề xã hội ở tỉnh, TP đó. Việc áp dụng pháp luật của tòa án để thấy được những vấn đề cần điều chỉnh, những quy định còn xung đột, bất cập, vướng mắc; loại tranh chấp phát sinh nhiều trong xã hội, vấn đề nổi cộm chưa được xử lý…
Thưa ông, trong một số trường hợp, nếu đương sự đề nghị không công khai bản án, quyết định (không thuộc các trường hợp không công bố theo quy định tại Điều 4, Nghị quyết số 03) thì có được đáp ứng không?
Nếu không thuộc các trường hợp bản án, quyết định không công bố trên Cổng thông tin điện tử của tòa án thì do chủ tọa phiên tòa và hội đồng xét xử quyết định công bố hay không công bố khi có đơn yêu cầu.
Xin cảm ơn ông!
Thu Phong (thực hiện)
Bắc Ninh

















Ý kiến bạn đọc (0)