Muôn thuở tre xanh
![]() |
|
Bên lũy tre làng. |
Ngày còn đi học vỡ lòng, nay là lớp một, bậc tiểu học, nhà tôi ở gần chợ. Bà cô chú bác ai đi chợ cũng tạt vào ném cái xe đạp góc sân. Mặc cho cái xe không chuông, không phanh, không gác-đờ-bu, không gác-đờ-xen, hai cái lốp quấn chằng quấn chịt dây cao su, vừa thồ người vừa thồ hàng, đổ kềnh góc sân, các vị yên chí ra chợ. Mấy đứa trẻ tóc cháy khét râu ngô thành kẻ trông xe bất đắc dĩ. Bù lại tha hồ ăn quà. Người cho tấm mía, quả ổi, mảnh bánh đa vàng xuộm. Người cho thoi phấn, cái bút chì, hòn tẩy. Có bà gặp hôm buôn may bán đắt, dúi hẳn vào tay đồng bạc. Thành ra, ở gần chợ bọn trẻ cũng khôn hơn đám bạn trong làng. Mới học đến lớp bốn đã biết câu “nhất cận thị, nhị cận giang” (thứ nhất là gần chợ, thứ nhì là gần sông, thuận cho việc làm ăn buôn bán).
Lũ trẻ con nghịch như quỷ sứ nay đã ngất ngưởng 60, “lục thập nhi nhĩ thuận”, mọi chuyện thuận nghịch qua tai thoáng qua đã biết. Mỗi người đi một con đường khác nhau. Cái làng nhỏ bên sông đẻ ra vô khối anh tài. Tướng quân đội, công an có cả chục vị. Giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà báo, doanh nhân... đủ cả. Nhưng làm đến ông nọ bà kia khi về làng nhất quyết phải theo lệ làng. Người dân quê có câu: “Vào họ xem hàng, ra làng xem tuổi”. Người làng tôi thường kể chuyện một ông Tướng về giỗ họ, ông này ngồi lên sập gụ, vị trí quan trọng nhất trong nhà thờ. Rồi xếp chân bằng tròn gọi hết này đến người kia là cô, chú (đàn em) mang cho anh cái này cái nọ. Bất ngờ có một vị trưởng lão râu tóc bạc trắng, guốc mộc cắp nách mới “e hèm” mà rằng: Anh ở đâu là ông Tướng không biết, nhưng về làng thì phải đúng vai. Anh con nhà ông Khoai bà Ráy, thuộc phái ba, chỗ anh ngồi là ở ngoài kia. Còn mấy cô, chú mà anh vừa sai bảo họ, tuy tuổi ít nhưng lại thuộc phái cả, họ là cháu ông Cả Chân, anh phải gọi họ bằng chú – chú cháu chứ không phải chú em đâu đấy. Nghe thế ông Tướng đỏ dừ hai tai nhưng được cái trận mạc đã quen, nên ông vui vẻ “lạy ông, ông dạy chí phải”.
Lại nhớ hôm về quê dự đám cưới con một người bạn lính. Chuyện trò rôm rả thâu đêm. Xem ra thời thế giới phẳng chuyện quê chuyện phố cũng chả khác nhau là mấy. Từ chuyện Mỹ sang chuyện Nhật Bản, Pháp, Nga... cứ như G7 trong lòng bàn tay. Nhưng chuyện gì rồi cũng quay về chuyện làng. Nào là cái cổng làng vừa mới được phục dựng, nửa cổ nửa kim, chữ Nho chen chữ quốc ngữ, đẹp chưa thấy đâu chỉ thấy mất toi hàng tỷ đồng. Nào là cơn bão hàng đa cấp vừa tràn qua mấy lũy tre xanh khiến nhiều nhà trắng tay. Đúng là cái kiểu “đơm đó ngọn tre”, nghe xui ngon xui ngọt thế nào, khôn lõi đời như nhà ông Tư lùn cũng mang cả sổ đỏ ra thế chấp làm vốn nộp cho mấy công ty ma. Lại nữa chuyện trai làng hết “đập đá” lại sang “cỏ Mỹ”, toàn thứ ma túy chết người. Bố mẹ cứ khăng khăng, cháu nhà em có thấy tiêm chích, hút hít gì đâu. Thế mới chết, thời nay các thứ tệ nạn xã hội tràn vào nhanh lắm, gần như tức thời với ở thành phố. Đến khi công an xã áp tận nhà gọi đi cai nghiện bố mẹ mới té ngửa về thằng con nghịch tử.
![]() |
|
Diện mạo làng quê đổi mới. Ảnh: Cổng làng Hưng Thịnh, xã Tư Mại (Yên Dũng). |
Nói đi phải nói lại. Cái mảng tối đó ở làng nó gây ra nhiều tai họa thật đấy nhưng mảng sáng cũng đáng khen thay. Một buổi tối, tôi sang nhà ông giáo Tuy chơi. Ông ngoài bảy mươi tuổi, về hưu cả chục năm nay, bây giờ nhà ông thành lớp dạy chữ cho trẻ. Dạy miễn phí, rồi cho các em mượn sách đem về đọc. Cái thư viện của thầy cũng do mọi người tặng sách, đâu lên đến cả nghìn cuốn. Có mấy bác nhà văn của tỉnh, của Trung ương lần nào về cũng mang theo cả ba lô đủ các loại sách văn học, khoa học kỹ thuật, sách giáo khoa...
Không kể chuyện dạy chữ, thầy Tuy đắm chìm trong những câu chuyện làng. Cứ theo ý thầy thì chưa bao giờ làng quê cứ như lên cơn sốt hầm hập. Bao nhiêu thứ “hóa” ngày xưa nghe đầy sách vở, nào là cơ giới hóa, điện khí hóa, tin học hóa nay đã thành sự thật, đã rõ hình hài, ai cũng mắt thấy, tai nghe. Máy cấy, máy cày, máy gặt chạy rần rần trên đồng. Vụ cấy, vụ gặt, mỗi vụ chỉ làm gọn trong mươi ngày. Bây giờ cảnh gặt lúa đêm trăng, đập lúa đêm trăng đã vào thơ vào nhạc một thời bọn trẻ chẳng thể nào hình dung nổi. Cảnh đập lúa, thơ thầy Tuy viết: “Những sợi trăng vương trong rơm/ Những giọt trăng văng ra nghìn hạt thóc”... Nhưng nỗi niềm cây lúa thì thời nào cũng nặng. Giá hạt thóc vẫn nhẹ tênh, trong khi nhà nông việc chi tiêu to nhỏ đều quy ra thóc. Rồi chất lượng hạt gạo cũng sút kém. Người dân châu thổ sông Hồng lại thích ăn gạo tẻ Điện Biên, rồi gạo Lào, gạo Thái. Xưa nhà nông nói “nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống” nhưng nay có lẽ phải đặt giống lên hàng đầu.
|
Câu chuyện trước Tết này của người xa quê và người quê từ gốc đến ngọn cứ vui-lo xen lẫn. Nói sách vở một tí là có khá nhiều mâu thuẫn trong đời sống nông thôn hiện nay nhưng đó là mâu thuẫn trong sự phát triển. Làng của hôm nay dựng trên cái làng của hôm qua, không thể khác. Mới và cũ, cổ xưa và hiện đại, cấp tiến và bảo thủ đều có thể đọc thấy từ làng. Từ nhà đến làng, từ làng ra nước, phải làm sao có một cuộc cách mạng mạnh mẽ hơn, táo bạo hơn, chớ bằng lòng với những lời ca đã quen tai, đã làm đẹp lòng, ru ngủ nhau khá nhiều năm tháng. |
Nhưng nói gọn lại thì làng đang chuyển động theo xu hướng nào? Tôi hỏi. Thầy đáp ngay, có cả tốt và xấu. Tốt là ở chỗ, nếp sản xuất nhỏ dần mất đi kéo theo tư duy nhà nông cũng thông thoáng, làm gì cũng tính đến hiệu quả. Vì thế mà công nghiệp phát triển, làng nghề phát triển, giọt mồ hôi của người nông dân đổi về được nhiều tiền hơn. Nhưng xu hướng xấu thì thấy nhỡn tiền. Thấy rõ nhất là gương mặt làng quê biến dạng. Về quê thấy nhà ngói, nhà hai tầng, ba tầng san sát, đường nhựa, đường bê-tông tỏa về các xóm, thôn, nhưng hình như đấy không phải làng. Làng không có tre xanh, những con sông xanh, ao làng trong vắt. Xóm không có những bờ giậu chạy dài, những giậu cúc tần vấn vít tơ hồng, những bờ giậu duối quả vàng trĩu trịt, những hàng rào cây ô-rô được xén bằng bặn...Thay vào đó là đông cứng những bức tường vây bọc. Bê tông hóa đường chứ đừng bê tông hóa bờ giậu. May mà, biến dạng chứ chưa phải là biến mất. Chưa biến mất có lẽ là do còn giữ được văn hóa làng; giữ được nếp quê, tình quê của những người dân chắt chiu thuần hậu, sống gắn bó, nương tựa vào nhau, “mạ nhờ đất, đất nhờ nước, nước nhờ mạ”, chứ không như ở đâu đó, vô cảm, a dua đã trở thành căn bệnh thời @.
Câu chuyện trước Tết này của người xa quê và người quê từ gốc đến ngọn cứ vui-lo xen lẫn. Nói sách vở một tí là có khá nhiều mâu thuẫn trong đời sống nông thôn hiện nay nhưng đó là mâu thuẫn trong sự phát triển. Làng của hôm nay dựng trên cái làng của hôm qua, không thể khác. Mới và cũ, cổ xưa và hiện đại, cấp tiến và bảo thủ đều có thể đọc thấy từ làng. Từ nhà đến làng, từ làng ra nước, phải làm sao có một cuộc cách mạng mạnh mẽ hơn, táo bạo hơn, chớ bằng lòng với những lời ca đã quen tai, đã làm đẹp lòng, ru ngủ nhau khá nhiều năm tháng.
Tôi đọc thấy điều ấy trên gương mặt thầy giáo cũ, ông chủ tịch xã về hưu, ông nhà văn ở ẩn, ông thiếu tướng đặc công... Và tất cả đọng lại trên gương mặt cha tôi, một ông thợ cày thạo cả cày mò và cày ải. Cha tôi đã đi xa mấy chục năm rồi nhưng mỗi Tết, vẫn nghe đâu đây lời ông : “Vụng múa đừng chê đất lệch. Đất quê mình là đất vàng, nhưng trong đất thì không có mỏ vàng”.
Hoa đào phai nở sớm đã lất phất đầu ngõ. Tôi thấy tiếng Xuân náo nức bay qua những rì rào muôn thuở tre xanh...
Hải Đường
Bắc Ninh


















Ý kiến bạn đọc (0)