Tập hợp, hỗ trợ hội viên DTTS, phụ nữ có đạo phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc
BẮC GIANG - Để tập hợp hội viên phụ nữ tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa và phát triển kinh tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 06 ngày 19/2/2014 của Ban Chấp hành T.Ư Hội LHPN Việt Nam, khóa XI về “Tăng cường công tác vận động phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS), phụ nữ có đạo trong tình hình hiện nay”. Đồng chí Ngụy Thị Tuyến, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh chia sẻ về kết quả thực hiện nghị quyết trên địa bàn tỉnh.
Thưa đồng chí, quá trình thực hiện nghị quyết đã tạo ra những chuyển biến như thế nào đối với phụ nữ vùng DTTS, phụ nữ có đạo trên địa bàn tỉnh?
Các cấp Hội Phụ nữ tỉnh Bắc Giang đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao trình độ, nhận thức về mọi mặt cho phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc thù của từng địa phương. Tập trung tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến; quan tâm khen thưởng hàng nghìn phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo là điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực. Phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới” được triển khai lồng ghép với các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
![]() |
|
Đồng chí Ngụy Thị Tuyến gặp gỡ hội viên phụ nữ DTTS điển hình. |
Nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc được thực hiện có hiệu quả, như: Lồng ghép triển khai thực hiện các chương trình, dự án trên địa bàn vùng DTTS, tôn giáo để hỗ trợ nguồn lực (giống, vốn, xây dựng các mô hình phát triển kinh tế); tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về khởi sự kinh doanh, kinh doanh online, dạy nghề cho 9,4 nghìn lao động nữ DTTS, phụ nữ có đạo; hỗ trợ thành lập hơn 100 hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất, kinh doanh. Gần 7,2 nghìn hộ gia đình hội viên phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo được vay vốn phát triển kinh tế; hơn 4 nghìn lượt hộ nghèo DTTS, có đạo được hỗ trợ đã thoát nghèo, trong đó 735 lượt hộ nghèo do phụ nữ làm chủ thoát nghèo bền vững; hỗ trợ 205 phụ nữ DTTS, có đạo khởi sự/khởi nghiệp.
Các cấp hội tổ chức nhiều hoạt động nâng cao kiến thức, kỹ năng nuôi dạy con khoa học, tổ chức cuộc sống gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới; duy trì, xây dựng các câu lạc bộ, tổ, nhóm về xây dựng gia đình hạnh phúc. Qua đó tạo điều kiện cho hội viên phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo được chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức xây dựng, tổ chức cuộc sống gia đình; phối hợp với ngành Y tế tổ chức các hoạt động khám bệnh, tư vấn sức khỏe và tặng thuốc cho 1,5 nghìn chị. Tuyên truyền, vận động gần 100% hội viên phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo tham gia bảo hiểm y tế; rà soát thống kê hộ gia đình hội viên chưa đạt các tiêu chí “5 không, 3 sạch” để tổ chức giúp đỡ. Kết quả, hằng năm hơn 90% gia đình hội viên phụ nữ DTTS, có đạo đạt “Gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với gia đình văn hóa; 100% cơ sở hội vùng đồng bào DTTS, có đạo đăng ký với cấp ủy, chính quyền triển khai thực hiện hiệu quả hơn 1 nghìn công trình/hoạt động/phần việc thiết thực, phù hợp, góp phần tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh. Từ các hoạt động đó đã góp phần quan trọng thúc đẩy KT-XH vùng đồng bào DTTS, tôn giáo ngày càng phát triển; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh năm 2014 từ 8,88% xuống còn 2,63% năm 2023.
Để đạt được kết quả, mục tiêu như vừa nêu, việc xây dựng, củng cố và nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của tổ chức hội ở vùng DTTS, có đạo được thực hiện như thế nào, thưa đồng chí?
Để đạt được kết quả, mục tiêu vận động phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo trong tình hình hiện nay mấu chốt là: Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ hội các cấp về công tác dân tộc - tôn giáo, đặc biệt là cán bộ hội cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, từng bước nâng cao chất lượng cơ sở hội vùng DTTS, tôn giáo. Chú trọng tổ chức các hoạt động nhằm thu hút hội viên phụ nữ DTTS, tôn giáo tham gia tổ chức hội; duy trì, xây dựng các CLB, tổ nhóm phụ nữ dân tộc, tôn giáo đặc thù. Đến nay, 99% chủ tịch và 84,4% phó chủ tịch Hội LHPN cơ sở vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo đạt chuẩn chức danh về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Từ năm 2014 đến nay, toàn tỉnh kết nạp hơn 10 nghìn hội viên phụ nữ DTTS, tôn giáo.
![]() |
|
Hội viên phụ nữ DTTS xã Hồng Kỳ (Yên Thế) trao đổi về công tác ứng dụng chuyển đổi số trong sinh hoạt hội. |
Cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết tới các cấp hội, lựa chọn trọng tâm, trọng điểm phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương, đối tượng phụ nữ DTTS, có đạo. Thường xuyên nắm chắc tình hình cán bộ, hội viên, phụ nữ vùng DTTS, có đạo; phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp hội, thiết thực chăm lo, hỗ trợ cho phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo. Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức hội vùng DTTS, vùng có đạo, chú trọng cấp cơ sở. Cùng với các biện pháp nêu trên, các cấp hội LHPN toàn tỉnh còn tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách có liên quan đến phụ nữ, gia đình và trẻ em ở vùng DTTS, vùng có đạo; tham mưu tổ chức đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với cán bộ, hội viên phụ nữ DTTS, tôn giáo; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em vùng đồng bào DTTS, tôn giáo.
Xin đồng chí nêu một số điển hình có cách làm hoặc mô hình sáng tạo, nổi bật của phụ nữ tỉnh trong thực hiện nghị quyết thời gian vừa qua?
Trong 10 năm qua có nhiều điển hình có cách làm sáng tạo, nổi bật, mang lại hiệu quả tốt của phụ nữ tỉnh trong thực hiện Nghị quyết 06/NQ-BCH, như: Câu lạc bộ (CLB) phụ nữ Công giáo phát triển kinh tế xã Tân Sỏi với hơn 100 thành viên, 2 CLB phụ nữ dân tộc với pháp luật ở xã Tiến Thắng và xã Đồng Vương (Yên Thế) thu hút gần 200 thành viên. Tham gia các CLB này, các chị thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị của địa phương, hướng dẫn thành viên thực hiện các tiêu chí gia đình “5 không, 3 sạch”; phối hợp tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, giúp nhau về vốn để phát triển kinh tế gia đình. Các CLB thêu của đồng bào dân tộc Dao ở xã Tuấn Đạo, xã Vân Sơn (Sơn Động) thu hút hàng trăm thành viên duy trì nghề thêu trang phục của người Dao để lưu giữ bản sắc dân tộc và phát triển kinh tế.
Qua 10 năm thực hiện nghị quyết, Hội LHPN tỉnh Bắc Giang rút ra những bài học kinh nghiệm gì, thưa đồng chí?
Một là, tăng cường cập nhật thông tin, quán triệt đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; tập huấn, bồi dưỡng trang bị kiến thức cho cán bộ hội các cấp, đặc biệt là cán bộ cơ sở; trao đổi, định hướng để cán bộ hội cơ sở luôn nhận thức rõ vai trò của mình, thường xuyên đổi mới, nâng cao nhận thức theo sự vận động của xã hội để kịp thời thích ứng, tuyên truyền sâu rộng, phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò của mình với cộng đồng.
Hai là, phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ hội cơ sở, nhất là đội ngũ chi hội trưởng phụ nữ trong cộng đồng người DTTS, có đạo. Tăng cường định hướng, chỉ đạo, động viên, khích lệ đội ngũ cán bộ chi hội nâng cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết, tích cực phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục người dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước.
Ba là, thường xuyên quan tâm nắm tình hình, vận động và hỗ trợ phụ nữ DTTS, tôn giáo phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc, ổn định tình hình an ninh chính trị ở vùng đồng bào DTTS, tôn giáo; tăng cường thông tin, biểu dương, khen thưởng, gặp mặt, đến thăm, chúc mừng nhân các dịp ngày lễ, Tết.
Xin đồng chí cho biết công tác vận động phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo của Hội LHPN tỉnh Bắc Giang sẽ tập trung vào những trọng tâm nào trong thời gian tới?
Công tác vận động phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo của Hội LHPN tỉnh Bắc Giang sẽ tập trung vào những trọng tâm sau: Tiếp tục tuyên truyền vận động hội viên, phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua, cuộc vận động, khâu đột phá và nhiệm vụ công tác hội, nhiệm vụ của địa phương.
Chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hội, báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp làm công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ DTTS, phụ nữ có đạo, ưu tiên cấp cơ sở. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ DTTS, có đạo nâng cao nhận thức, rèn luyện sức khỏe, phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam. Xây dựng, nhân rộng mô hình có hiệu quả về thu hút hội viên phụ nữ DTTS, có đạo; vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách đối với địa bàn dân tộc, có đạo lồng ghép với kiểm tra phong trào của hội định kỳ. Tích cực tổ chức các hoạt động thực hiện bình đẳng giới và giải quyết các vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em vùng đồng bào DTTS.
Xin cảm ơn đồng chí!
Bắc Ninh















Ý kiến bạn đọc (0)