Tổ quốc của chúng ta
BẮC NINH - Vào một ngày tháng Sáu, trong cái nắng chói chang của mùa hè, tôi từ biệt làng quê nghèo khó bị bom đạn Mỹ tàn phá để vào bộ đội. Một chàng trai trẻ măng vừa học xong cấp ba, vóc dáng gầy mảnh, da trắng, khoác lên mình chiếc ba lô con cóc màu cỏ úa đựng hai bộ quân phục cùng chăn màn, khăn mặt, tăng võng…
Chẳng giấu gì, đêm đầu tiên xa quê, nằm trên chiếc võng còn thơm phức mùi vải, tôi thao thức không ngủ được và bỗng nhiên lại nghĩ tới cái chết. Cái chết của một người lính trận giữa bốn bề lửa khói và kẻ thù trước mặt. Có chút rùng mình khi tưởng tượng tới cảnh bị một viên đạn hay mảnh bom của địch găm vào thân thể thanh xuân. Tôi có thể hy sinh như bao người lính khác đã ngã xuống. Bỗng nhiên thấy thương hơn những mái nhà tranh “Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương” như Trần Đăng Khoa đã viết, bùi ngùi khi nghĩ tới bà nội bà ngoại, cha mẹ và những đứa em bé dại của mình. Đất nước những năm tháng ấy bom đạn tơi bời và thiếu thốn đủ thứ. Nhưng hình như rất ít người đứng ngoài cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đặc biệt với người lính, họ phải vượt lên để sống, chiến đấu như tình yêu và nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc. Tôi cũng vậy, không ngoại lệ, là người lính đi hết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và gắn bó với Quân đội bốn mươi ba năm.
![]() |
Một tiết mục văn nghệ ca ngợi Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, đất nước phồn vinh. Ảnh: Ngọc Anh. |
Đồng đội của tôi có nhiều lớp chiến sĩ, cũng là lính chống Mỹ như cách ta thường gọi, nhưng có người lặng lẽ bám trụ ở Trường Sơn từ thời “ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” và số mới nhập ngũ măng tơ như tôi. Họ đến từ nhiều vùng quê với các kiểu giọng và phương ngữ khác nhau nhưng chung tình yêu đất nước và khát vọng hoà bình. Những con người làm nên Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, mang trong mình một phần Tổ quốc. Không thể nói khác được, phần thiêng liêng nhất của non sông chính là sự dâng hiến hy sinh của những con người đó. Tôi biết, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã có hơn hai mươi nghìn bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến ngã xuống giữa trùng điệp Trường Sơn. Ở thượng nguồn sông Bến Hải của tỉnh Quảng Trị có Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nơi những người ngã xuống đã truyền cảm hứng cho tôi viết được những câu thơ này: “Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn/ Mười nghìn lời ca trong bài ca lớn/ Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc/ Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta/ Mười nghìn con đò thương về bến đợi/ Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa…”. Và đây là một khẳng định chắc chắn rằng không có đường Trường Sơn thì sẽ không có ngày 30 tháng Tư năm 1975 toàn thắng để dân tộc giành lại được độc lập tự do, đất nước hoà bình và thống nhất non sông.
Có thể nói, từng ngọn núi, dòng sông, đồng ruộng, bưng biền, xóm mạc, góc phố… ở đâu cũng có những dấu tích về lòng yêu nước cao cả, về sự dâng hiến hy sinh cho Tổ quốc của chiến sĩ, đồng bào. Những con người làm vẻ vang đất nước rất bình dị, đơn sơ, ở thời nào cũng có. |
Chặng đường hai mươi mốt năm chống Mỹ là sự tiếp tục của chín năm kháng chiến chống Pháp. Chiến tranh nối chiến tranh. Bao nhiêu chiến công hiển hách là bấy nhiêu hy sinh mất mát. Dằng dặc những chia ly, thương nhớ chờ mong. Diễn ngôn theo cách của Hữu Thỉnh thì “Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường, níu chiếu đợi anh”. Tuy rằng, trước đó ba mươi năm dân tộc đã làm nên một dấu mốc lịch sử trọng đại. Khát vọng độc lập tự do đã trở thành hiện thực lộng lẫy. Đó là cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trên Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Nắng mùa thu chan hòa trên những gương mặt lam lũ vừa rũ bùn đứng dậy. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tinh thần đó thấm sâu vào các thế hệ, nên khi Tổ quốc gặp họa xâm lăng thì ai cũng có thể trở thành chiến sĩ, ai cũng sẵn sàng dâng hiến máu xương cho đất nước. Đó là sự thật, sự thật hào hùng và bi thương mà không thế lực nào, cá nhân nào có thể phủ nhận hay bôi lem được.
Vừa qua, tôi đến tham quan Bảo tàng Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật. Trong rất nhiều hiện vật trưng bày, tôi vô cùng xúc động khi đứng trước một chiếc ba lô đã bạc màu. Đấy chính là chiếc ba lô mà bộ đội ta đã dùng để gùi xăng qua trọng điểm ác liệt trong thời chống Mỹ trước khi hệ thống đường ống xăng dầu được thi công xuyên Trường Sơn. Để có một thùng xăng cho ô tô chở hàng, chở vũ khí, chở quân chạy, nhiều khi phải đổi bằng máu. Máu trộn hòa với mồ hôi người lính xăng dầu. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Sỹ Hậu vốn là một trong những kỹ sư thiết kế, chỉ huy thi công đường ống xăng dầu Trường Sơn thời chiến tranh kể, có đêm bộ đội ta gùi được 30 phuy xăng tới đích nhưng có tới 29 chiến sĩ hy sinh và 18 người bị thương. Có lẽ vì những ấn tượng, nói đúng ra là ám ảnh về đồng đội - những người làm nên huyền thoại đường ống xăng dầu Trường Sơn mà nhà văn Hồ Sỹ Hậu đã viết tiểu thuyết "Dòng sông mang lửa" khá sinh động và hấp dẫn. Sức chịu đựng và tinh thần vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ của những người lính đường ống xăng dầu thật đáng khâm phục, nhất là với các cô gái trẻ đến từ các làng quê nghèo khó: “Những cô gái đường ống thon mảnh chỉ sau vài tháng vác ống đã chai sạn nắng cháy, cả thân hình như bị đè xuống, bàn chân bè ra, vai u và nét thon thả nhanh chóng mất đi. Vậy mà, không mấy người quan tâm đến điều ấy, họ vô tư, sung sướng khi thấy tuyến ống cứ nối dài như một con trăn khổng lồ bò dần vào phía Nam…”.
![]() |
Tiểu đoàn 18, Sư đoàn 365 bảo vệ cầu Đáp Cầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ảnh tư liệu. |
Muôn vàn câu chuyện như thế về sự hy sinh, dũng cảm, sáng tạo của chiến sĩ, đồng bào ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Có thể nói, từng ngọn núi, dòng sông, đồng ruộng, bưng biền, xóm mạc, góc phố… ở đâu cũng có những dấu tích về lòng yêu nước cao cả, về sự dâng hiến hy sinh cho Tổ quốc của chiến sĩ, đồng bào. Những con người làm vẻ vang đất nước là những con người rất bình dị, ở thời nào cũng có. Tôi từng hai lần ra Trường Sa, khi đặt chân lên thềm cát san hô của quần đảo yêu thương, cái cảm giác Tổ quốc gần gũi và thiêng liêng khôn xiết. Khi đứng trong đội hình quân - dân vùng đảo nghiêm trang ngước mắt chào cờ đỏ sao vàng và cất cao tiếng hát “Đoàn quân Việt Nam đi…” tôi cảm nhận rất rõ văn hoá dựng nước và giữ nước của dân tộc mình. Cái minh triết lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, dùng chí nhân thay cường bạo; sách lược phòng thủ bờ cõi từ xa vẫn còn nguyên giá trị đến hôm nay và mai sau. Và, biết coi trọng sức dân muôn đời vẫn là bài học sinh tử không được phép quên lãng. Từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã nhắc nhở “Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ/ Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên” (Thuyền bị lật mới tin câu nói dân như nước/ Cậy đất hiểm cũng khó dựa mệnh là ở trời). Huống hồ nay, khi khát vọng của Đảng ta và Dân ta là dựng xây nên một chế độ tốt đẹp của dân, do dân, vì dân. Kỷ nguyên dân tộc vươn mình cũng là để bay tới chế độ xã hội hạnh phúc dành cho muôn người. Ai cũng được sống tốt, sống đẹp, ai cũng được hạnh phúc. Hạnh phúc ấy không phải là giấc mơ ảo huyền, càng không phải là chiếc bánh vẽ nhiều màu sắc mà là cuộc sống thật ngay chính trên đất nước của chúng ta. Cuộc sống ấm no, bình yên, chan chứa yêu thương và lẽ phải luôn được trân trọng. Lấy từ mốc lịch sử này chăng: Tám mươi năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) được khai sinh. Mùa thu năm 2025. Năm năm sau. Mười năm sau. Hai mươi năm sau. Năm mươi năm sau. Một trăm năm sau, Tổ quốc lộng lẫy trên Hành tinh xanh. Việt Nam, nơi đáng sống trên trái đất này. Những bước đi mới. Những đường bay mới. Những tầm vóc mới. Vững chãi niềm tin. Tràn trề hy vọng. Quá khứ. Hiện tại. Tương lai. Việt Nam! Tổ quốc yêu dấu của chúng ta!.
Ý kiến bạn đọc (0)