Bắc Ninh: Bảo tồn giếng cổ, giữ mạch hồn quê
BẮC NINH - Hiện nay, ở nhiều làng quê trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vẫn còn những giếng cổ. Không chỉ đơn thuần là nguồn cung cấp nước, đây còn là không gian văn hóa, nơi gắn kết tình làng nghĩa xóm, phản ánh nét đẹp cộng đồng của người Việt xưa.
Kiến trúc độc đáo, đậm bản sắc
Trên địa bàn tỉnh hiện còn hàng chục giếng cổ, đặc biệt có gần 20 giếng vuông ở các xã: Tân Yên, Nhã Nam, Phúc Hòa, Quang Trung, Xuân Cẩm… Những giếng này có tuổi đời hàng trăm năm, hầu hết vẫn giữ nguyên vẻ cổ kính và mạch nước trong mát. Đây là chứng tích sống động, phản ánh kỹ thuật khai thác nước tài tình của cha ông, đồng thời lưu giữ bao giá trị văn hóa, phong tục gắn liền với đời sống làng quê. Giếng vuông ở Bắc Ninh thường được kè bằng đá ong, đá xanh hoặc gạch Bát Tràng; có nơi gia cố thêm các thanh gỗ lim, gỗ thông ngâm nước trăm năm không mục. Miệng, thành giếng vuông vắn, phía đáy lát phẳng, tạo cảm giác bền vững. Kích thước các giếng khá đa dạng, loại lớn có cạnh vuông, mặt giếng khoảng 2 m, lòng rộng 1-1,2 m; loại nhỏ khoảng 1,3 m, lòng rộng gần 1 m. Dù đào không quá sâu, có thể từ 5 đến 10 m nhưng các giếng vuông hiếm khi cạn nước.
![]() |
Đoàn cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh số 1 khảo sát giếng vuông ở xã Nhã Nam. |
Vị trí giếng thường ở đầu làng, gần đình, chùa hoặc ven cánh đồng, vừa thuận tiện cho việc lấy nước vừa gắn liền với đời sống tín ngưỡng cộng đồng. Không chỉ là công trình cấp nước, giếng vuông từ xưa đã mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Theo quan niệm dân gian, giếng là mạch nguồn tụ thủy, tụ phúc của làng. Hình vuông tượng trưng cho đất, kết hợp với nước tạo nên nguồn sống, sự sinh sôi nảy nở. Giếng còn là cầu nối giữa trời - đất - thần và con người, nuôi sống bao thế hệ bằng dòng nước mát lành. Bởi vậy, giếng luôn được gìn giữ, tôn kính; lấy nước dùng trong các nghi thức.
Tiêu biểu như giếng vuông làng Chiềng (xã Nhã Nam) có kích thước lớn nhất trong những giếng vuông được khảo sát trên địa bàn tỉnh; gần đình, nghè tạo không gian linh thiêng. Đáy giếng xếp gỗ lim và đá cuội chắc chắn. Các cụ cao niên cho biết, trước kia vào ngày Rằm, mùng Một, người dân đều ra đình và giếng làm lễ, lấy nước về dùng, thắp hương. Mọi người coi giếng như long mạch của làng vì nước không bao giờ cạn. Cùng xã có giếng Chùa Nguộn, miệng và thành xây kè bằng đá phiến, trong lòng xếp kè đá ong, nước trong quanh năm. Quanh khu vực này còn phát hiện một số hiện vật có dấu tích thời Trần.
Tại xã Quang Trung có giếng Đầu, thành xếp đá tảng và gỗ lim, còn tương đối nguyên vẹn; giếng Đọ dù miệng đã tu sửa tròn nhưng lòng vẫn vuông, kè đá ong chắc chắn. Bên cạnh giếng còn có cột đá gan gà - biểu tượng Linga của người Chăm, cho thấy dấu ấn giao thoa văn hóa Việt - Chăm xưa. Gần đây, tại thôn Hạc Lâm (xã Xuân Cẩm), trong quá trình nạo vét ao làng, người dân phát hiện một giếng vuông cổ với thành gỗ kè theo hình xoắn ốc hiếm gặp ở đồng bằng Bắc Bộ. Đây là loại giếng mạch đứng, nước luôn trong, phản ánh kỹ thuật đào giếng tiến bộ của cư dân nhiều thế kỷ trước. Gỗ được kè xung quanh giúp thành giếng vững chắc hơn, có thể mang lại tác dụng lọc nước, ngăn nước bẩn tràn vào.
Theo các nhà nghiên cứu, kiểu giếng vuông vốn không phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ mà thường gặp ở miền Trung. Thành giếng vuông vức bốn góc, lát phẳng dưới đáy không chỉ tạo nét thẩm mỹ độc đáo mà còn giúp giữ mạch nước ổn định, hạn chế sạt lở. Ở Bắc Ninh, nhiều giếng còn giữ kỹ thuật kè đá ong và gỗ giống như thiết kế giếng của người Chăm, gợi mở giả thuyết về sự giao thoa, hòa quyện văn hóa trong lịch sử.
Giữ lại nét xưa
Ngày nay dẫu nước máy, nước giếng khoan đã về từng thôn, xóm, khu phố nhưng hàng chục giếng vuông cổ trên địa bàn tỉnh vẫn được bảo tồn, lưu giữ; coi như một phần không thể thiếu của không gian văn hóa làng. Dù không còn đóng vai trò cấp nước chính, những công trình này vẫn là những hiện vật sống động của lịch sử, chứa đựng ký ức làng quê và minh chứng cho sự tôn vinh giá trị truyền thống của cư dân địa phương. Một số nơi, người dân đã cải tạo lát sân, xây bờ xung quanh nhưng vẫn giữ cấu trúc cũ. Trong xây dựng nông thôn mới, hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình tiếp tục góp phần giữ gìn hồn quê mộc mạc, cổ kính. Giếng vuông ở Bắc Ninh không chỉ là di tích kiến trúc độc đáo mà còn là mạch nguồn văn hóa, là ký ức chung của cộng đồng, cần được bảo tồn để truyền lại cho thế hệ mai sau.
Bảo tồn giếng vuông không chỉ đơn thuần là giữ lại một công trình cổ mà còn là bảo vệ di sản văn hóa làng xã - nơi lưu giữ hồn cốt, phong tục, tập quán, đồng thời là không gian sinh hoạt cộng đồng gắn bó tình làng nghĩa xóm. |
Bảo tồn giếng vuông không chỉ đơn thuần là giữ lại một công trình cổ mà còn là bảo vệ di sản văn hóa làng xã - nơi lưu giữ hồn cốt, phong tục, tập quán, đồng thời là không gian sinh hoạt cộng đồng gắn bó tình làng nghĩa xóm. Trước hết, tiến hành kiểm kê toàn bộ hệ thống giếng cổ trên địa bàn, phân loại theo mức độ nguyên trạng để có phương án bảo tồn phù hợp. Những giếng bị lấp hoặc bỏ hoang cần được nghiên cứu khả năng khôi phục; giếng còn sử dụng được cần nạo vét, dọn sạch, tìm lại mạch nguồn, lát gạch hoặc kè đá thành giếng, đổ bê tông hoặc lát sân gạch quanh giếng, trồng cây xanh vừa giữ vệ sinh nguồn nước, vừa làm đẹp không gian làng quê. Chính quyền địa phương cần khoanh vùng bảo vệ khu vực giếng cổ, dừng các hoạt động đào bới, san ủi đất cận kề để tránh phá vỡ mạch nước và làm biến dạng cảnh quan. Việc khoan giếng mới cần được kiểm soát chặt chẽ để hạn chế tác động đến mạch nước ngầm. Trên các đồi đất liền kề hoặc xung quanh giếng cổ nên trồng cây để chống xói lở, giữ độ ẩm và bảo vệ thổ nhưỡng.
Song song với đó, cần khơi lại “hồn” của giếng vuông trong đời sống cộng đồng. Các phong trào xây dựng nông thôn mới, khu dân cư kiểu mẫu, bảo vệ môi trường… nên lồng ghép nội dung bảo vệ giếng làng; tổ chức các hoạt động lễ hội, trò chơi dân gian, sinh hoạt văn hóa - văn nghệ... Tuyên truyền để giúp người dân nhận thức rằng bảo tồn giếng cổ chính là gìn giữ một phần ký ức, thể hiện tình yêu quê hương.
Ngoài ra, giếng vuông ở Bắc Ninh có hình thức kiến trúc đặc biệt, khác biệt so với truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu khoa học. Các nhà chuyên môn cần đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, giá trị lịch sử - văn hóa của loại hình này, nhất là mối liên hệ với kỹ thuật đào giếng ở miền Trung. Kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở để xây dựng các tour du lịch trải nghiệm, đưa du khách về với làng quê, cùng nghe câu chuyện giếng làng, tìm hiểu kỹ thuật xây giếng, khám phá những phong tục gắn liền với nguồn nước. Khi được bảo tồn, gìn giữ, giếng làng sẽ không chỉ còn trong ký ức mà tiếp tục hiện hữu trong đời sống hôm nay để người dân địa phương tự hào về một di sản độc đáo đã đi cùng bao thế hệ.
Ý kiến bạn đọc (0)