Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc: Khơi dậy niềm tự hào, ý thức gìn giữ truyền thống trong cộng đồng
BẮC NINH - Dự án 6 về “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì triển khai trên phạm vi toàn quốc. Cục trưởng Cục Văn hóa Dân tộc Trịnh Ngọc Chung đã chia sẻ với báo chí một số kết quả nổi bật trong giai đoạn I (2021-2025) của Dự án.
Gìn giữ di sản
Thưa Cục trưởng, ông có thể cho biết một số kết quả đạt được của Dự án 6 trong giai đoạn 2021-2025?
Trịnh Ngọc Chung: Dự án 6 đã có nhiều thành tựu nổi bật - minh chứng sinh động cho quyết tâm, nỗ lực và sự đồng lòng của toàn hệ thống chính trị cùng đồng bào các dân tộc.
Ở góc độ bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, Dự án 6 cung cấp nguồn lực để tổ chức các lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số đã được nghiên cứu, phục dựng và tổ chức bảo tồn; nhiều lễ hội đã được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, góp phần khôi phục bản sắc văn hóa vùng miền. Ngoài ra, hơn 50 làng, bản, buôn truyền thống được bảo tồn, từng bước hình thành mô hình bản văn hóa - du lịch, điểm văn hóa - du lịch, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào.
![]() |
|
Cục trưởng Cục Văn hóa dân tộc Trịnh Ngọc Chung phát biểu tại hội thảo khoa học bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch. |
29 di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia tiêu biểu được hỗ trợ tu bổ, tôn tạo. Các điểm du lịch tiêu biểu vùng dân tộc thiểu số được cải tạo, nâng cấp hạ tầng và sản phẩm du lịch, trong đó nhiều điểm đã hình thành mô hình du lịch cộng đồng bền vững, kết hợp bảo tồn văn hóa truyền thống với phát triển sinh kế, như: Bản Nà Hang (Tuyên Quang), Làng văn hóa Lác (Hòa Bình), Plei Ơi (Gia Lai), Sin Suối Hồ (Lai Châu)…
Đây là sự gìn giữ ký ức thiêng liêng của dân tộc, đồng thời là điểm nhấn thu hút khách du lịch. Hơn 700 câu lạc bộ văn hóa dân gian và 5.760 đội văn nghệ truyền thống đã được thành lập, duy trì hiệu quả. Đây là lực lượng nòng cốt đưa văn hóa dân tộc đi vào đời sống cộng đồng.
Bên cạnh đó, 3.220 nhà văn hóa - khu thể thao thôn, bản được xây dựng hoặc cải tạo, nâng tỷ lệ 93,8% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng, 66,1% thôn có đội văn hóa, văn nghệ truyền thống hoạt động thường xuyên, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội đề ra (80% và 50%).
Với những kết quả đó, ông có đánh giá như thế nào về hiệu quả, ý nghĩa của Dự án 6?
Trịnh Ngọc Chung: Dự án 6 đã tạo ra nguồn lực quan trọng trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời từng bước biến văn hóa thành động lực kinh tế. Thay vì chỉ dừng lại ở gìn giữ, bảo tồn, văn hóa các dân tộc thiểu số giờ đây đang từng bước được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch đặc sắc, giúp tạo sinh kế, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng sống cho người dân.
Thành công của giai đoạn 1 cũng tạo tiền đề vững chắc cho việc triển khai Dự án 6 giai đoạn 2026-2030, hướng tới phát triển toàn diện, bao trùm và bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch
Cục Văn hóa dân tộc có đề xuất gì cho mục tiêu của Dự án 6 giai đoạn tiếp theo 2026-2030, thưa ông?
Trịnh Ngọc Chung: Chúng tôi đã tham mưu lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tiếp tục triển khai Dự án 6, khẳng định vai trò thiết yếu của văn hóa trong chiến lược phát triển bền vững và nâng tầm du lịch quốc gia.
Trong giai đoạn 2026-2030, Dự án 6 sẽ được tái cơ cấu lại thành 14 nhiệm vụ cụ thể, chia thành hai nhóm chính, gồm: Nhóm 4 hoạt động đầu tư xây dựng: Bảo tồn làng, bản văn hóa truyền thống; tu bổ di tích quốc gia đặc biệt của các dân tộc thiểu số; xây dựng, cải tạo thiết chế văn hóa, thể thao thôn, bản; hình thành điểm đến du lịch văn hóa tiêu biểu tại các vùng dân tộc thiểu số.
Nhóm 10 hoạt động hỗ trợ, đó là: Tổ chức ngày hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống; phát huy lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch biển, núi; truyền dạy văn hóa phi vật thể, bảo tồn tiếng nói - chữ viết dân tộc; xây dựng mô hình bảo tồn gắn với sản phẩm du lịch; thiết lập hệ thống dữ liệu văn hóa truyền thống của 54 dân tộc; đẩy mạnh truyền thông, quảng bá văn hóa - du lịch dân tộc.
Để thực hiện được các mục tiêu đó cần có những giải pháp cụ thể như thế nào, thưa ông?
Trịnh Ngọc Chung: Tôi cho rằng cần tăng cường phân cấp, trao quyền cho địa phương, song song với cơ chế giám sát, đánh giá từ Trung ương, song song với đó là rà soát, điều chỉnh văn bản pháp luật, danh mục xã, thôn đặc biệt khó khăn phù hợp mô hình chính quyền hai cấp, tăng tỷ lệ vốn đầu tư, giảm vốn sự nghiệp; ưu tiên hỗ trợ vùng sâu, vùng xa, dân tộc rất ít người.
Dự án 6 cần được đưa vào nội dung thành phần độc lập trong Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026-2030 để bảo đảm tính tập trung, hiệu quả và có thể giám sát, đánh giá định lượng. Từ đó ưu tiên phân bổ kinh phí cho các nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trong Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Bắc Ninh

















Ý kiến bạn đọc (0)