Tiếng ve ở nghĩa trang Trường Sơn
Tiếng ve ở nghĩa trang Trường Sơn
Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hôn
Kêu bồ đề xanh, kêu tượng đài trắng
Kêu buốt lá kim trên cây mọc thẳng
Tiếng kêu nhức nhức Trường Sơn
Ve kêu mất - còn
Tiếng kèn chiêu tập
Ve kêu mỏi mòn
Nhắc thời máu ứa
"Về chưa… về chưa?"
"Về chưa… về chưa?"
Cũng đành nhắc lại
Với mồ không tên và mộ có tên
"Về chưa… về chưa?"
Cũng đành nhắc mãi
Gọi hồn rừng sâu thăm thẳm
lạnh lùng
Nén hương cháy lên thành đuốc
bùng bùng
Ve kêu như lửa trùng trùng
ngọn sông…
Nguyễn Hữu Quý
Lời bình:
Nhà thơ quân đội, Đại tá Nguyễn Hữu Quý là một người lính Trường Sơn có nhiều bài thơ hay viết về người lính. “Tiếng ve ở nghĩa trang Trường Sơn” là một trong những bài thơ như thế.
![]() |
Minh họa: AI |
Bài thơ mang âm hưởng đặc biệt. Một hợp âm, một tiếng lòng, một tiếng vọng, tất cả hòa tấu thành một cung trầm da diết. Tiếng ve vốn là một âm thanh quen thuộc của mùa hè, của sự sống, nhưng tiếng ve ở nghĩa trang Trường Sơn thì lại khiến người ta bồn chồn, với biết bao hồi tưởng và day dứt. Tôi lại nhớ đến một câu thơ tài hoa của nhà thơ Phạm Tiến Duật, cũng là một người lính Trường Sơn “Ve vẫn kêu úp mặt vào cây” hay câu thơ tươi trẻ, hồ hởi của cậu lính trẻ Hoàng Nhuận Cầm “Vào mặt trận khi mùa ve đang kêu”.
Cấu trúc của bài thơ có những câu thơ dài ngắn, nhịp điệu lặp lại nhiều âm tiết tạo ra một bè trầm cao thấp, hợp với tâm trạng chập chờn của con người. Nhà thơ bắt đầu với động từ “kêu” như tiếng lòng thảng thốt, bao thổn thức với tiết tấu dồn dập tạo dư âm vang vọng “Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hôn”. Đó là tiếng vọng thời gian, thời khắc, nhưng khi chuyển sang cung bậc sắc thái khác “Kêu bồ đề xanh, kêu tượng đài trắng/ Kêu buốt lá kim trên cây mọc thẳng/Tiếng kêu nhức nhức Trường Sơn” thì đã là tiếng lòng day dứt. Âm thanh xoáy vào lòng người, vây bủa không dứt, kết nối những ký ức đã qua, những nỗi đau đã mất. Nhịp điệu thơ bỗng ngắt quãng, ngắn lại như để chầm chậm tìm về ký ức chiến trường một thời khói lửa với những đồng đội đã ngã xuống “Ve kêu mất - còn/ Tiếng kèn chiêu tập/ Ve kêu mỏi mòn/ Nhắc thời máu ứa”.
Tiếng ve nghẹn thắt như tiếng kèn “chiêu hồn tử sĩ”, như tiếng nấc nghẹn “mất - còn”. Ở đây nhà thơ chiến sĩ đang bước đi theo nhịp điệu tiếng ve, bước đi trong hồi tưởng những mấp mô đá, những uốn khúc suối, những cao thấp cây rừng, những trập trùng nỗi nhớ thương mà chỉ có tiếng ve cùng đồng hành, cùng hòa điệu “Về chưa… về chưa?/ Về chưa… về chưa?". Câu hỏi như tiếng gọi từ cõi xa xăm vọng lại, khắc khoải và tha thiết, để rồi: “Cũng đành nhắc lại/ Với mồ không tên và mộ có tên”. Nhịp thơ như trải ra rồi lắng lại với bao trăn trở, nhớ thương, thổn thức lòng người. Trong nghĩa trang Trường Sơn có mồ có tên và mộ không tên nằm kề bên nhau với lời thơ da diết “Về chưa… về chưa?”, tạo ra một âm điệu níu kéo qua tiếng ve cũng là tiếng lòng day dứt “Cũng đành nhắc mãi/ Gọi hồn rừng sâu thăm thẳm lạnh lùng”.
Nếu ví bài thơ như một khúc hòa ca trầm buồn sâu lắng thì đây là một âm trầm sâu thẳm nhất như hình dung một nén hương cong dấu hỏi đã cháy gần hết thì bỗng bất ngờ “Nén hương cháy lên thành đuốc bùng bùng/ Ve kêu như lửa trùng trùng ngọn sông…”. Dàn nhạc ve bỗng hóa thành bản giao hưởng giữa nghĩa trang Trường Sơn, không còn là âm thanh buồn tẻ, đơn điệu mà trở thành tiếng vọng của lịch sử, nhắc nhớ chúng ta về những điều thiêng liêng nhất.
Ý kiến bạn đọc (0)