Hội nhập quốc tế: Kim chỉ nam đưa Việt Nam tiến vào kỷ nguyên vươn mình
BẮC NINH - Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về "Hội nhập quốc tế trong tình hình mới" là kim chỉ nam giúp Việt Nam tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức để trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Đây là nhận định của Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng, thuộc Trường Quản lý kinh doanh Judge tại Đại học Cambridge (Anh).
Dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với thế và lực mới tích lũy qua gần 40 năm đổi mới với nhiều thành tựu to lớn và vĩ đại. Ngày nay, Việt Nam không chỉ có quan hệ ngoại giao song phương rộng mở với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 32 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược; ngoại giao đa phương Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ, không chỉ khẳng định vị thế là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế mà còn đóng góp tích cực cho các vấn đề toàn cầu và có các bước đi chủ động định hình môi trường đối ngoại của đất nước.
Về kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới, với các trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới; đứng vững vàng trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới.
![]() |
Cảng Cái Mép (Thành phố Hồ Chí Minh). |
Thành tựu 40 năm đổi mới giúp Việt Nam có sức hấp dẫn của một quốc gia có nền chính trị ổn định, một thị trường với gần 100 triệu dân, kinh tế tăng trưởng ở mức cao hàng đầu khu vực, cao hơn nhiều so với mức trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và của thế giới nói chung. Việt Nam đang có cơ cấu dân số vàng, với lao động có mặt bằng chất lượng cao song chưa quá đắt đỏ so với nhiều thị trường khác trên thế giới.
Việt Nam được biết đến là quốc gia có tiềm năng lớn về điện gió ngoài khơi, trữ lượng cao về khoáng sản chiến lược, đầu tư sớm cho các ngành mới nổi như bán dẫn. Việt Nam còn được biết đến là một nền kinh tế với năng lực đổi mới, sáng tạo cao trong khu vực; phù hợp với xu thế chuyển đổi số và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay.
Tuy nhiên, còn không ít trở lực quá trình vươn mình dân tộc. Nền kinh tế quốc dân có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao; còn phải tập trung nguồn lực cho nhiều vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách nên nguồn lực cho tăng trưởng chưa phải là dồi dào. Hơn thế nữa, bộ máy thể chế còn chồng chéo, cồng kềnh, nhiều mặt còn trì trệ, nhiều điểm nghẽn, trong nhiều trường hợp chưa tận dụng, khai phóng hiệu quả tiềm lực phát triển ở cả trong và ngoài nước. Trong khi đó, đất nước còn đối mặt với nhiều thách thức an ninh, cả truyền thống và phi truyền thống.
Là một chuyên gia người Việt có uy tín quốc tế, với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Cambridge - một trong những trường đại học danh tiếng nhất thế giới, Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng đã chỉ ra những lợi thế của Việt Nam để hội nhập quốc tế.
Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng nhận định trong bối cảnh thế giới bước vào “kỷ nguyên số” - nơi công nghệ, tri thức và thương mại toàn cầu ngày càng được mở rộng và tiếp cận công bằng cho mọi quốc gia, các nước đang phát triển đứng trước cơ hội chưa từng có để vươn mình phát triển, hội nhập.
Theo đó, Việt Nam có dân số thuộc top 15 thế giới với cơ cấu dân số vàng; vị trí địa lý trung tâm, nằm trên tuyến giao thương hàng hải quan trọng nhất thế giới qua Biển Đông; hình ảnh quốc tế thân thiện, hòa bình và phát triển; chính sách đối ngoại cân bằng, hiệu quả, đã xây dựng quan hệ tốt với các cường quốc.
Bên cạnh đó, Phó Giáo sư cũng đề cao sức mạnh, nguồn lực vai trò cầu nối của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, không chỉ về tài chính (khoảng 15 tỷ USD kiều hối/năm) mà còn về trí tuệ và hiểu biết về công nghệ - những đầu vào quan trọng nhất trong giai đoạn phát triển, hội nhập sắp tới của Việt Nam. Ông nhấn mạnh Việt Nam thuộc nhóm nước có cơ hội cao nhất trong các nước đang phát triển và Nghị quyết 59 sẽ là công cụ then chốt để tận dụng những cơ hội này, tạo tiền đề cho phát triển bền vững.
Dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với thế và lực mới tích lũy qua gần 40 năm đổi mới với nhiều thành tựu to lớn và vĩ đại. Ngày nay, Việt Nam không chỉ có quan hệ ngoại giao song phương rộng mở với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 32 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược; ngoại giao đa phương Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ, không chỉ khẳng định vị thế là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế mà còn đóng góp tích cực cho các vấn đề toàn cầu và có các bước đi chủ động, định hình môi trường đối ngoại của đất nước. |
Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng đánh giá rất cao tầm nhìn và định hướng trong Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị với sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, coi đây là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận đúng tầm quan trọng của việc định vị hội nhập của Việt Nam trong một thế giới mở rộng lớn, ngày càng đa cực và có thể có nhiều biến động hơn trong tương lai.
Ông nhấn mạnh Nghị quyết 59-NQ/TW không chỉ định vị Việt Nam trong thế giới đa cực, mà còn bao quát toàn diện chiến lược hội nhập quốc tế và phát triển toàn diện của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo trên các khía cạnh: Kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Ông cho rằng nếu thực hiện tốt, Nghị quyết sẽ giúp Việt Nam chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ cho mọi biến đổi của cục diện thế giới, từ quan hệ với cường quốc đến các nước láng giềng.
Tuy nhiên, Phó Giáo sư cũng chỉ ra những thách thức đối với Việt Nam, trong đó có việc thực hiện Nghị quyết. Ông lưu ý giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ bỏ lỡ thời cơ và rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Ngoài ra, Phó Giáo sư cũng đưa ra một số cảnh báo các rủi ro trong hội nhập, như mất cân bằng quan hệ trong thế giới bất ổn, dẫn đến phải điều chỉnh chiến lược. Trong khi các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng và tội phạm xuyên biên giới, cũng tiềm ẩn rủi ro đối với mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045 của Việt Nam.
Để khắc phục những thách thức và hiện thực hóa tầm nhìn trong Nghị quyết 59, Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng cho rằng trước hết Việt Nam cần tổ chức thực hiện bài bản, chặt chẽ, đột phá về nhân sự và tái đào tạo cán bộ. Cùng với đó, ông khuyến nghị Việt Nam tiếp tục chính sách cân bằng, không chọn phe, duy trì quan hệ tốt với tất cả các nước, giữ hòa bình, ổn định để phát triển.
Phó Giáo sư cho rằng hội nhập phải thực chất, dựa vào kinh tế và thương mại, với trọng tâm duy trì và nâng cao vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo đó, Việt Nam cần phát triển các ngành mũi nhọn dựa trên công nghệ cao, như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), qua đó tối ưu hóa quan hệ đối ngoại hiện nay và tạo lợi thế cạnh tranh toàn cầu.
Song song với đó, Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng gợi ý Việt Nam cần xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi hơn thông qua việc tham khảo và áp dụng quy chuẩn quốc tế. Ông dẫn ví dụ kinh nghiệm của các nước phát triển tại châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore-vốn đã khẳng định vị thế không thể thiếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nhờ chiến lược đồng bộ, dài hạn và tập trung vào công nghệ.
Về phát huy nguồn lực và kết nối kiều bào để tạo sức mạnh tổng hợp, Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng đánh giá Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách, sáng kiến hỗ trợ kiều bào tốt và cởi mở, nhưng việc triển khai cần thống nhất và chặt chẽ hơn để hướng nguồn lực vào mục tiêu lớn hơn như thu hút đầu tư công nghệ, chuyển giao kiến thức. Phó Giáo sư đề xuất Nhà nước cần thu hút kiều bào trong các dự án lợi nhuận và phi lợi nhuận, đầu tư phát triển công nghệ, thương mại, tận dụng chuyên gia kiều bào để truyền kinh nghiệm, đào tạo thế hệ trẻ và doanh nghiệp Việt Nam.
Ý kiến bạn đọc (0)