Nhất trí cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
BẮC NINH - Sáng 8/12, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng.
![]() |
|
Đại biểu Trần Văn Lâm phát biểu trong phiên thảo luận tại tổ, sáng 8/12. |
Các đại biểu Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh cơ bản nhất trí với Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng. Đồng thời, góp ý nhiều nội dung để hoàn thiện dự thảo luật.
Đại biểu Trần Văn Lâm cho rằng, cả bốn nội dung dự kiến sửa đổi của Luật Thuế Giá trị gia tăng lần này đều cấp bách và hợp lý. Đây đều là những nội dung đang được người dân, doanh nghiệp rất quan tâm, nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế Giá trị gia tăng. Khi đó, Quốc hội đã tranh luận nhiều về các nội dung này nhưng sau đó không được tiếp thu. Khi triển khai vào thực tiễn, doanh nghiệp và người dân bắt đầu phản ánh, thấy rõ bất cập, trở thành lực cản nên cần xem xét sửa đổi.
Về thuế giá trị gia tăng đối với nông sản, đại biểu viện dẫn việc nông sản, hải sản đánh bắt tự nhiên thuộc đối tượng không chịu thuế. Tuy nhiên, khi vào khâu thương mại mua bán trong nước thì lại phải tính thuế; đến khi xuất khẩu thì lại áp thuế suất 0% và được hoàn thuế. Điều này dẫn đến bất cập: người kinh doanh ở các khâu trung gian phải kê khai - nộp thuế; đến khi doanh nghiệp xuất khẩu lại phải thực hiện thủ tục hoàn thuế. Chuỗi mua bán qua nhiều khâu, chỉ cần một khâu trước đó có hành vi gian lận hoặc không hoàn thành thủ tục thì khâu cuối cùng không được hoàn thuế. Doanh nghiệp xuất khẩu vì thế gặp vô vàn khó khăn.
Ngoài ra, cơ chế “thu rồi lại hoàn”, qua nhiều khâu, làm chi phí quản lý thuế tăng cao, chi phí tuân thủ của doanh nghiệp lớn, đồng thời phát sinh rủi ro gian lận thuế. Vì vậy, đề xuất bỏ thu ở các khâu trung gian đối với mặt hàng đã thuộc diện không chịu thuế ngay từ đầu là hoàn toàn hợp lý, giúp giảm chi phí quản lý, giảm rủi ro gian lận và hỗ trợ doanh nghiệp.
Về thuế đối với phụ phẩm, phế phẩm, đại biểu cho rằng tách phế phẩm ra để áp mức thuế phù hợp hơn, nhằm khuyến khích kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là hoàn toàn hợp lý.
Về khấu trừ thuế đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế đầu ra, đại biểu lấy ví dụ thức ăn chăn nuôi: Đầu ra không chịu thuế, trong khi đầu vào (vận chuyển, dịch vụ, nguyên liệu) lại chịu thuế. Hiện nay phần thuế đầu vào đó không được khấu trừ, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh so với hàng nhập khẩu. Lần sửa này cho phép khấu trừ đầu vào đối với hàng hóa không chịu thuế đầu ra là hợp lý và hỗ trợ doanh nghiệp.
Đại biểu cho rằng việc bãi bỏ điểm c khoản 9 Điều 15 là cần thiết. Điểm này quy định cơ quan thuế chỉ hoàn thuế khi chứng minh toàn bộ các khâu trước đó đã nộp thuế đầy đủ. Trong chuỗi nhiều doanh nghiệp, chỉ cần một khâu không thực hiện đúng là khâu cuối cùng không được hoàn thuế. Đây chính là điểm nghẽn lớn trong thực tiễn gây khó cho doanh nghiệp xuất khẩu.
![]() |
|
Đại biểu Trần Thị Vân phát biểu trong phiên thảo luận tại tổ, sáng 8/12. |
Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân đánh giá cao tinh thần cầu thị, chủ động, quyết liệt và nắm bắt thực tiễn kịp thời của Chính phủ trong việc trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng số 48/2024/QH15. Việc Chính phủ lắng nghe ý kiến từ cộng đồng, doanh nghiệp, đồng thời chủ động rà soát, nhận diện và đề xuất tháo gỡ những rào cản về thuế đã thể hiện rõ tinh thần cải cách thực chất, kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và đồng hành với doanh nghiệp trong giai đoạn đầy thách thức hiện nay.
Việc sửa đổi Điều 5 theo hướng mở rộng đối tượng không phải tính thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mua, bán các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chưa chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Quy định bổ sung này giúp khắc phục tình trạng “thuế chồng thuế” trong chuỗi lưu thông hàng hóa, giảm chi phí trung gian, đồng thời tạo sự bình đẳng hơn giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng. Nhờ đó, doanh nghiệp có thêm dư địa tài chính để duy trì hoạt động, tái đầu tư và mở rộng sản xuất.
Thực tế, ngay khi Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2024 có hiệu lực, hàng loạt doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng đã liên tục gửi kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi tại Điều 5. Đặc biệt, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi và chăn nuôi trong nước đang đối mặt với nhiều thách thức rất lớn: trên 80% nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu, giá cả không ổn định, chuỗi logistics bất ổn, trong khi doanh nghiệp nước ngoài lại có lợi thế về vùng nguyên liệu và chuỗi cung ứng ổn định. Như vậy, ngay từ khâu đầu vào, doanh nghiệp trong nước đã không có lợi thế, làm suy giảm đáng kể năng lực cạnh tranh trên chính thị trường nội địa.
Đại biểu Trần Thị Vân thống nhất quan điểm đối với Báo cáo thẩm tra của Ủy Ban Kinh tế và Tài chính, rằng mọi sửa đổi, bổ sung luật thuế đều phải được cân nhắc thận trọng, dựa trên đánh giá tác động toàn diện. Tuy nhiên, lập luận cho rằng “cùng một chính sách sẽ có đối tượng được hưởng lợi và có đối tượng chịu thiệt hại” hay “việc triển khai chưa đủ lâu để tổng kết” không thể là lý do để trì hoãn hoặc phủ nhận việc sửa đổi luật trong trường hợp này. Bởi lẽ, nếu tiếp tục giữ nguyên quy định hiện hành của khoản 1 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng, đối tượng chịu thiệt hại trực tiếp và rõ ràng nhất chính là doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi và rất nhiều chủ thể trong chuỗi cung ứng nông - lâm - thủy sản, cụ thể:
Thứ nhất, các bất cập của Điều 5 không chỉ xuất phát từ khâu tổ chức thực hiện mà còn từ chính quy định pháp lý chưa rõ ràng về phạm vi không chịu thuế, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa các địa phương, gây ách tắc hoàn thuế và làm tăng chi phí thủ tục hành chính.
Thứ hai, trong bối cảnh Chính phủ đang thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số và hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau dịch, thì sửa đổi Điều 5 theo hướng rõ ràng hơn về nhóm hàng hóa - dịch vụ không chịu thuế, hoặc hoàn thuế đầu vào đối với một số lĩnh vực được ưu tiên sẽ góp phần tăng thanh khoản cho doanh nghiệp, giảm tồn đọng vốn, thúc đẩy sản xuất - xuất khẩu. Lợi ích tăng trưởng và mở rộng sản xuất tạo nguồn thu bền vững trong dài hạn có thể bù đắp phần giảm thu ngắn hạn, thậm chí làm tăng thu ngân sách nếu doanh nghiệp mở rộng quy mô.
Thứ ba, việc sửa đổi Luật không đồng nghĩa tạo kẽ hở hay tăng nguy cơ thất thu ngân sách nếu được thiết kế có tiêu chí, có đánh giá tác động và cơ chế kiểm soát chặt chẽ. Ngược lại, sửa đổi để minh bạch hơn còn giúp giảm rủi ro nhũng nhiễu, xin - cho trong hoàn thuế, phù hợp với tinh thần kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật.
















Ý kiến bạn đọc (0)