Nâng tầm kinh tế tư nhân, tạo động lực tăng trưởng
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chỉ rõ: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”.
![]() |
|
Phân xưởng sản xuất của Công ty cổ phần Cà phê hòa tan Trung Nguyên (Khu công nghiệp Quang Châu). Ảnh: Minh Quyết |
Những thay đổi về tư duy và nhận thức quan trọng đó đã tạo điều kiện để khu vực KTTN từng bước phát triển cả về lượng và chất. Từ chỗ chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá thể, đến nay đã có những tập đoàn kinh tế. Từ chỗ chủ yếu hoạt động trong khu vực phi chính thức, KTTN đã chuyển đổi mạnh mẽ sang hoạt động trong khu vực chính thức của nền kinh tế, phạm vi kinh doanh rộng khắp ở những ngành mà pháp luật không cấm. Đặc biệt, trong những năm qua, một làn sóng khởi nghiệp đã và đang diễn ra, đem lại sức sống mới cho nền kinh tế.
Cùng với cả nước, khu vực KTTN tỉnh Bắc Giang phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển KT-XH của tỉnh với gần 40% GRDP, 1/3 thu ngân sách nhà nước, trên 45% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Tính đến nay, cả tỉnh có trên 10 nghìn DN đang hoạt động, DN tư nhân chiếm trên 90% và mỗi năm có thêm hàng nghìn DN được thành lập mới; thu hút hơn 51% lực lượng lao động cả tỉnh và tạo khoảng 15 nghìn việc làm cho người lao động mỗi năm.
Những kết quả này phản ánh sự lớn mạnh về quy mô, số lượng chủ thể và sự cải thiện về hiệu quả của KTTN. Đặc biệt đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của tỉnh, huy động được nguồn vốn xã hội, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển kinh tế và đang ngày càng chứng minh là một trong bốn trụ cột thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương.
Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng sự phát triển của khu vực KTTN, trong đó chủ yếu là DN tư nhân vẫn chưa được như mong muốn xét từ cả phía Nhà nước và DN, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Đa số DN tư nhân ở Bắc Giang là DN nhỏ và siêu nhỏ. Do quy mô vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu nên năng lực cạnh tranh của DN tư nhân thường thấp hơn DN nhà nước và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Nhiều DN tư nhân còn kinh doanh theo hình thức ngắn hạn, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài hạn; ý thức tự giác chấp hành pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân của khu vực tư nhân chưa thực sự lớn mạnh, còn thiếu kinh nghiệm trên thương trường quốc tế và chưa được đào tạo sâu về quản lý sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận doanh nhân còn hạn chế về kiến thức, sự am hiểu pháp luật và năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh và hội nhập...
Năng lực công nghiệp của khu vực KTTN trên thực tế là rất nhỏ và yếu. Phần lớn sản xuất công nghiệp của các DN tư nhân là gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và trung bình. Do trình độ công nghệ thấp, các DN tư nhân không có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho các DN lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ các DN FDI đang tăng trưởng nhanh. Số lượng DN tư nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn rất ít. Mô hình kinh tế hộ truyền thống tồn tại lâu nay ở nông thôn không còn phù hợp với điều kiện mới.
Lĩnh vực hoạt động của các DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như dịch vụ, bất động sản, các ngành, nghề thu hồi vốn nhanh… Còn thiếu vắng một lực lượng DN “đầu tàu” đủ mạnh để có thể dẫn dắt tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Xét về mặt tổng thể, vai trò, vị trí của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. KTTN ngày càng đóng góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội.
|
Cùng với cả nước, khu vực KTTN ở tỉnh Bắc Giang phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với gần 40% GRDP, 1/3 thu ngân sách nhà nước, trên 45% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. |
Từ thực tế nêu trên, Ðảng và Chính phủ đã xác định phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Nhận thức này cần được cụ thể hóa vào chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới.
Báo cáo chính trị Đại hội XIIl của Đảng có những điểm mới, cụ thể hơn, rõ ràng hơn: “KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn KTTN mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Khuyến khích DN tư nhân hợp tác, liên kết với DN nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động” và khuyến khích phát triển KTTN “phát triển thành các công ty, tập đoàn KTTN mạnh, có sức cạnh tranh cao” cũng chính là một định hướng để “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển DN Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia”.
Đây tiếp tục là những đột phá mới trong nhận thức về vai trò của KTTN của Đảng, cần tiếp tục nâng cao nhận thức để tạo sự thống nhất trong thực hiện; khẳng định vai trò của KTTN là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là tạo việc làm, an sinh xã hội...
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, trong Quy hoạch phát triển tỉnh Bắc Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 cần đề ra nhiều chủ trương đổi mới, sáng tạo, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an toàn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để DN, đặc biệt là DN tư nhân, DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp phát triển thuận lợi.
Theo đó, việc xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN; hỗ trợ KTTN đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn KTTN lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế; đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 15 nghìn DN với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GRDP đạt 50%; đến năm 2030 có trên 20 nghìn DN với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GRDP đạt trên 60%, Bắc Giang cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
Bắc Ninh




















Ý kiến bạn đọc (0)