Người giữ sao
Những ngày cuối năm, không gian như đặc quánh lại bởi mùi khói rơm rạ và hương tràm khô theo gió thốc từ cánh đồng vào tận ngõ sâu. Nắng chiều buông mình xuống hiên nhà ông Tự, yếu ớt và mong manh, nhuộm màu hổ phách lên mái ngói âm dương đã bạc thếch. Giữa khung cảnh nhập nhoạng ấy, ông Tự ngồi trên chiếc ghế gỗ sờn mòn, đôi tay gầy guộc tỉ mẩn thắp lên ngọn đèn dầu bé nhỏ.
![]() |
“Cái đèn này, ông chong lên là để đợi mấy cậu ấy về!”. Ông quay sang tôi - thằng nhóc hàng xóm, ánh mắt ông đượm buồn nhưng lấp lánh lạ thường: “Đó là những vì sao cuối cùng còn sót lại trong đời ông đấy, Đức ạ!”. Lúc đó, tôi chỉ là một đứa trẻ nhìn đời bằng đôi mắt trong veo, làm sao hiểu nổi cuộc đối thoại vô thanh giữa một ông và ngọn bấc cháy dở. Tôi từng tự hỏi, ngọn đèn ấy biết gì mà ông lại trút bầu tâm sự? Rồi thời gian dần trôi, cuốn tôi rời xa lũy tre làng để va vấp với cuộc đời. Mãi đến lúc trở về, mang theo những vết xước của sự trưởng thành, ngồi co ro bên hiên nhà trong chiều cuối năm, tôi mới thấu cảm được sức nặng của sự tĩnh lặng ấy. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn dầu hắt lên gương mặt ông, len lỏi vào tâm khảm tôi, ấm áp và thiêng liêng như một lời thề nguyện giữ trọn tình đồng đội.
Năm mười chín tuổi, ông Tự để lại sau lưng cổng làng, mang theo tuổi trẻ dấn thân vào những cánh rừng già. Thanh xuân của ông được đo đếm bằng vạn dặm đường hành quân, bằng cái lạnh cắt da của rừng thiêng nước độc và nhịp tim dồn dập của những người lính trẻ nằm kề bên nhau. Gia tài của ông gói gọn trong chiếc hộp thiếc màu bạc đặt trên nóc tủ. Những ngày gió mùa về, ông lại trịnh trọng đặt lên bàn chiếc mũ cối sờn rách. Màu xanh của mũ đã ngả sang sắc úa vàng của cỏ cháy, minh chứng cho bao mùa nắng mưa. Vậy mà, khi ánh đèn dầu vàng vọt chiếu qua, chiếc mũ bỗng lấp lánh lạ thường. Trên đó chi chít những ngôi sao kim loại nhỏ xíu, cái to cái nhỏ, cái méo cái tròn, chẳng theo một trật tự nào. Từng ngôi sao ấy được ông gò bằng tay, gắn chặt vào cốt mũ như cách ông cố gắng giữ lại từng kỷ niệm vụn vỡ về những người anh em đã ngã xuống, nâng niu như báu vật vô giá của một thời máu lửa.
Ngày ấy, tôi từng ngây ngô hỏi:
- “Sao ông không gỡ bớt mấy cái sao này đi? Đội thế này nặng đầu lắm!”
Ông chỉ cười, nụ cười nghiêng nghiêng như ngọn gió chiều:
- “Nặng thế này... mới nhớ được lâu, cháu ạ!”
Đêm ấy, gió bấc tràn về, rít qua những lũy tre đầu xóm tạo thành âm thanh u hoài như tiếng đàn ai gảy vào thinh không. Tôi khoác áo chạy sang, thấy ông đang cặm cụi bên ngọn đèn, tay cầm mảnh vải mềm lau từng ngôi sao trên chiếc mũ cối. Tôi lặng lẽ ngồi xuống bậc cửa, nhìn đôi tay gầy guộc của ông lướt qua những trầy xước của thời gian.
-“Ông kể cháu nghe về họ đi... về mấy ngôi sao ấy”
Ông ngừng tay, nhìn tôi đăm chiêu rồi khẽ gật đầu:
-“Hôm nay thằng bé lại muốn nghe chuyện lính à?”
-“'Dạ, cháu nghe".
Ông Tự lặng đi một hồi lâu, đôi mắt mờ đục nhìn vào ngọn đèn như đang ngược dòng thời gian, kéo những mảnh ký ức từ vùng tối xa xăm về lại thực tại. Rồi ông cất tiếng, giọng khàn đặc:
-“Ngôi sao đầu tiên này...”. Ông nâng chiếc mũ lên bằng cả hai tay, trân trọng như đỡ một sinh linh bé nhỏ. “Là của thằng San. Nó người Nghệ, cái giọng trọ trẹ mà nặng tình lắm. Cậu ấy hát dân ca ví dặm hay nhất đại đội. Những đêm hành quân xuyên rừng, chân mỏi rã rời, vai tóe máu vì ba lô nặng, nhưng hễ nghe tiếng nó nghêu ngao câu “giận mà thương” vang lên giữa đại ngàn là anh em lại thấy lòng dịu lại, quên hết nhọc nhằn. Vậy mà... nó nằm lại trong một trận càn năm bảy ba khốc liệt. Lúc hấp hối, nó dúi vào tay ông mảnh sao bằng đồng còn dính bụi đất, thều thào: “Có chi ông giữ hộ tui. Để sau ni... còn có cái mà nhớ tui!”
Ông chạm nhẹ lên ngôi sao nhỏ như thể sợ làm nó đau. Gió thổi qua hiên khiến ngọn đèn dầu khẽ lay. Ngón tay ông Tự di chuyển sang một ngôi sao có cạnh sắc lẹm. "Ngôi sao thứ hai này”, giọng ông chùng xuống, “là của thằng Lâm. Nó là em út của đơn vị, mặt búng ra sữa, lúc nào cũng liến thoắng chạy nhảy như con sóc rừng. Có lần hành quân qua trảng cỏ, mưa nguồn xối xả trắng trời, nó trượt chân suýt bị dòng suối dữ cuốn đi. Ông lao theo, túm lấy cổ áo nó kéo giật lên bờ. Từ khoảnh khắc sinh tử ấy, nó không gọi ông là đồng chí nữa, mà cứ quấn quýt gọi “anh Hai”. Vậy mà... rừng thiêng nước độc đã cướp nó đi. Cơn sốt rét ác tính thiêu đốt cơ thể nhỏ bé ấy trong cái lán bệnh xá dột nát. Lúc mê sảng, tay nó vẫn nắm chặt lấy tay ông. Trước khi lịm dần, nó dúi vào tay ông một ngôi sao sần sùi, được mài vụng về từ mảnh vỏ đạn đồng: “Anh Hai giữ lấy... em mệt quá, em ngủ một chút đây”.
Ông ngừng lời, cổ họng nghẹn đắng. Đúng lúc ấy, một cơn gió lạnh thốc qua hiên nhà khiến ngọn đèn dầu chao đảo, bóng ông trên vách cũng rung lên bần bật như cơn sốt rét năm nào.
"‘Ngôi sao thứ ba này”, ông chỉ vào một ngôi sao có vẻ to hơn, “là của thằng Trung, sức vóc vạm vỡ cày cả mẫu ruộng không mệt, thế mà lại nhát ma một phép. Đêm nào đến phiên gác, nó cũng nằng nặc lôi ông đi cùng, bảo là nghe tiếng thú rừng hú hét nó cứ nổi gai ốc, lạnh gáy. Vậy mà trong trận đánh cuối cùng, cái gã sợ ma ấy lại nằm lại một mình giữa rừng thẳm. Lúc chôn cất anh em, tay ông run run tháo vội ngôi sao trên nắp ba lô sờn rách của nó mang về, sợ để nó lại đó... nó buồn”. Giọng ông chùng xuống, kéo dài ra, tan loãng vào bóng tối. “Rồi còn đây nữa... của Thanh, của Hòa, thằng Độ...” Ông lẩm bẩm như đang điểm danh. “Mỗi ngôi sao không chỉ là một miếng kim loại vô tri, mà là một khuôn mặt, một giọng cười, một câu hò dở dang”. Đôi mắt ông Tự đục ngầu sương gió bỗng rực lên một ánh lửa lạ lùng của những người đã đi qua cửa tử.
- “Cháu biết không? Ông còn ngồi đây, còn hít thở khí trời này... là đang sống thay cho phần đời của tụi nó cả đấy!”
Tôi lặng người. Ngoài kia, mưa bắt đầu gõ nhịp trên mái ngói, lộp độp, nghe như tiếng bước chân hành quân xa xăm vọng về.
Cuối năm, đất trời bắt đầu cựa mình ấm lại, những chồi non đã nhú xanh trên cành cây khô. Nhưng nghịch lý thay, ngọn lửa sinh mệnh trong ông Tự lại cứ thế lụi dần như bấc đèn cạn dầu. Ông không còn đủ sức ra hiên ngồi nữa, chỉ tựa lưng bên khung cửa sổ, ánh mắt đăm đắm nhìn về dãy núi xa thẫm. Ở đó, mỗi chiều, nắng quái rải xuống một màu cam đỏ rực rỡ mà thê lương.
Một buổi chiều nhập nhoạng, tôi sang thăm, thấy ông ngồi bất động trên giường, đôi tay gầy guộc ôm trọn chiếc mũ cối vào lòng như ôm một đứa trẻ. Giọng ông thều thào, mỏng manh như sương khói:
- “Ông sợ... một mai ông đi gặp anh em rồi, mấy ngôi sao này bơ vơ, chẳng còn ai giữ, ai nhớ...”
Tôi nghẹn lòng, nắm chặt lấy bàn tay lạnh lẽo của ông, kiên định:
- “Ông yên tâm, có con ở đây. Con sẽ giữ, sẽ thay ông giữ gìn!”
Ông nhìn sâu vào mắt tôi, cái nhìn trĩu nặng sự gửi gắm, rồi khẽ gật đầu, hơi thở dường như nhẹ nhõm hơn. Nhưng tôi hiểu, nỗi sợ trong ông không nằm ở những mảnh kim loại vô tri kia. Ông sợ thời gian tàn nhẫn sẽ xóa nhòa ký ức về những con người đã cùng ông băng qua lửa đạn. Với ông, hai chữ “đồng đội” không chỉ là tên gọi, mà là máu thịt, là một phần linh hồn thiêng liêng không thể tách rời.
Vào một buổi sáng, khi những búp bàng non tơ vừa cựa mình tách vỏ xanh ngọc, ông Tự nhẹ nhàng rời bỏ cõi tạm trong một giấc ngủ êm đềm như sương khói. Gương mặt ông giãn ra, thanh thản và tĩnh tại lạ thường, khóe môi dường như còn vương nét cười, như thể ở phía bên kia giấc mơ, ông vừa kịp bắt gặp những hình bóng thân thương đã chờ đợi từ lâu.
Ngày tiễn ông về đất mẹ, trời rải những hạt mưa bụi bay lất phất như rắc phấn hoa. Trên con đường đất đỏ dẫn ra nghĩa trang, chiếc mũ cối sờn màu nằm trang trọng trên nắp quan tài, những ngôi sao kim loại ướt mưa sáng lên lấp lánh như những giọt nước mắt kết tinh. Tang lễ xong, tôi rước chiếc mũ và hộp thiếc về, đặt lại chỗ cũ trên chiếc bàn gỗ mộc. Đêm ấy, tôi tự tay châm ngọn đèn dầu. Ánh lửa hạt đậu bùng lên, run rẩy hắt bóng lên vách tường loang lổ. Kỳ lạ thay, dưới ánh sáng vàng vọt ấy, những ngôi sao trên mũ bỗng rực lên, sâu thẳm và huyền bí tựa như một dải ngân hà thu nhỏ đang ngự trị trong căn phòng vắng.
Nhìn vào đó, những miếng kim loại vô tri bỗng hóa thành xương thịt. Tôi thấy ông San với điệu ví dặm da diết vọng vào vách đá; thấy ông Lâm gầy gò ngồi vá áo dưới mái lán mưa dột; thấy ông Trung sợ ma đang níu áo đồng đội... Và bao trùm lên tất cả là tuổi trẻ của ông Tự - một tuổi trẻ rực lửa đã hòa tan vào đại ngàn Trường Sơn, vào gió Lào cát trắng.
Giờ đây, mỗi chiều ngang qua ngôi nhà vắng chủ, tôi vẫn nán lại. Cánh cửa khép hờ hững hờ như ông chỉ vừa chạy đi đâu đó. Gió chiều vẫn lùa qua sân nắng, tiếng tre vẫn xào xạc kể chuyện ngày xưa. Dường như trong thinh không, hơi ấm từ ngọn đèn ông thắp vẫn còn vương vấn đâu đây, chưa chịu tan đi. Tôi tin rằng, ở một cõi xa xăm nào đó không còn đạn bom, ông Tự đã tìm thấy “những vì sao” của mình. Họ lại được quây quần bên nhau, trẻ trung và nguyên vẹn như những ngày đầu nhập ngũ, cùng nghêu ngao khúc quân hành và kể tiếp những ước mơ còn dang dở. Còn ở lại thế gian này, dưới mái nhà cũ kỹ, những ngôi sao trên chiếc mũ cối vẫn âm thầm tỏa sáng như chính cuộc đời những người lính.
Bắc Ninh














Ý kiến bạn đọc (0)