Những sáng kiến tiêu biểu
Nuôi trai nước ngọt lấy ngọc
Giải Nhất của Cuộc thi thuộc về giải pháp “Ứng dụng công nghệ, xây dựng mô hình sản xuất ngọc trai nước ngọt bằng phương pháp lai ghép mô tế bào” của tác giả Trương Đình Tùng (SN 1992), thôn Quan 1, xã Đông Hưng (Lục Nam). Đây là giải pháp được đánh giá cao về lĩnh vực công nghệ sinh học.
![]() |
|
Nông dân Trương Đình Tùng (thứ hai, bên trái) giới thiệu sản phẩm ngọc trai nước ngọt. |
Từ loài trai đen cánh dày (Hyriopsis Cuminggi lea) sống ở nước ngọt, bằng phương pháp cấy ghép mô tế bào và nhân vào khu vực xoang màng áo ngoài của vật nuôi này đã cho ra ngọc trai nước ngọt kích cỡ từ 4 đến 12 mm, màu sắc đa dạng, chủ đạo là màu tím. Thời gian nuôi thả trai cấy ngọc từ 18 tháng đến 3 năm tùy thời tiết, chất lượng nước. Với quy mô nuôi theo hộ, mỗi sào đất mặt nước có thể nuôi từ 700 đến 1 nghìn con trai, đạt tỷ lệ 1 viên ngọc/con, mỗi sào cho lãi hàng trăm triệu đồng.
Theo anh Trương Đình Tùng, ngọc trai nước ngọt có giá trị cao, chiếm khoảng 70% lượng ngọc trai trên thị trường. Bắc Giang có nhiều loài trai nước ngọt sinh sống trong các tuyến sông và hơn 12 nghìn ha ao, hồ... là tiềm năng lớn để các gia đình, tổ chức, doanh nghiệp khai thác, phát triển nghề nuôi trai nước ngọt lấy ngọc.
Máy tẽ ngô công suất khoảng 5 tạ/giờ
Một lao động sử dụng chiếc máy tẽ ngô QS1 do nông dân Chu Văn Quỳnh (SN 1957), thôn Rèm, xã Giáo Liêm (Sơn Động) chế tạo sẽ cho năng suất cao hơn so với máy thông thường 2 đến 3 lần. Mỗi giờ, máy tẽ được 4,5 đến 5 tạ hạt ngô, không bị sót, hạt ngô không vỡ và lẫn tạp chất. Đặc biệt, máy tẽ hạt QS1 có giá khoảng 900 nghìn đồng/chiếc (chưa kể động cơ điện). Giải pháp này dễ áp dụng trong nông nghiệp, nhất là đối với đồng bào miền núi, vùng cao trồng nhiều ngô, giảm chi phí sản xuất, ngày công lao động.
![]() |
|
Nông dân Chu Văn Quỳnh với chiếc máy tẽ ngô QS1 đoạt giải Nhì của Cuộc thi. |
Từ thực tế hiện có một số máy của Trung Quốc đang được người dân Việt Nam sử dụng nhưng khi tẽ hạt thường bị dập, ông cải tiến thay vì đập bằng răng máy thành trục lô gắn răng xoắn, tách liên tục khiến hạt không dập vỡ, năng suất cao hơn. “Thời gian qua, gia đình tôi đã sản xuất, lắp đặt và bán khoảng 300 chiếc cho người dân trong và ngoài tỉnh. Ở những nơi trồng nhiều ngô, có thể một nhóm hộ mua một máy để dùng chung vì công suất của máy lớn, tránh lãng phí”, ông Chu Văn Quỳnh cho biết.
Máy cấy thủ công giật tay
Qua thông tin đại chúng và thực tế tham quan các loại máy cấy chạy bằng động cơ, nông dân Nguyễn Văn Thụy (SN 1975), thôn Xuân Minh, xã Hương Mai (Việt Yên) đã sáng chế ra chiếc máy cấy thủ công giật tay thuận tiện, hiệu quả cho bà con. Máy có thiết kế nhỏ, gọn, trọng lượng khoảng 30 kg, gồm có: Đế, giàn mạ, cần tay kéo máy và cần giật cấy. Khi sử dụng, một máy cấy trong thời gian một ngày đạt khoảng 9 sào, tương đương với 8 người cấy thủ công hoặc sử dụng mạ khay. Các yếu tố kỹ thuật như: Hàng sông cố định 21 cm; hàng con, độ sâu cây mạ, số lượng cây/khóm có thể điều chỉnh bằng máy.
![]() |
|
Nông dân Nguyễn Văn Thụy và chiếc máy cấy thủ công giật tay đoạt giải Nhì của Cuộc thi. |
Chiếc máy này được ông Thụy nghiên cứu, cải tiến và bắt đầu thử nghiệm từ năm 2014. Đến nay, nhiều người nhận nhận thấy sử dụng máy cấy giật tay thuận tiện, hiệu quả đã đặt hàng ông sản xuất với giá 3 triệu đồng/chiếc. Vụ chiêm xuân năm nay, hàng chục ha lúa ở địa phương được bàn con dùng máy cấy “ông Thụy”. Sản phẩm đoạt giải Nhì của Cuộc thi. Ông Nguyễn Văn Thụy phấn khởi: “Tôi mong muốn có nhiều người cùng liên kết sản xuất, tiêu thụ máy cấy thủ công giật tay góp phần giúp bà con bớt vất vả, trồng lúa mang lại hiệu quả cao hơn”.
Cao Minh Ngọc
Bắc Ninh

















Ý kiến bạn đọc (0)