Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - Thành quả chung của quá trình đấu tranh vì tiến bộ xã hội, đáp ứng khát vọng của nhân loại tiến bộ
Trong những năm qua, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc thành tựu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, nhận diện, vạch trần, đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, thù địch, khẳng định bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc cấp thiết.
1- Nhận diện các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ là bản chất của chế độ ta, là nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân, dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, trong đó lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau. Điều đáng nói, các thế lực thù địch đã dùng mọi thủ đoạn, không ngừng tìm cách phủ nhận, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta có thể nhận diện các quan điểm phủ nhận, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên những phương diện chủ yếu sau:
![]() |
Cán bộ là công bộc của dân, tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. (Ảnh minh họa) |
Về mục tiêu: Phủ nhận, xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bằng các chiêu bài, như đơm đặt, lồng ghép xuyên tạc các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo… ở Việt Nam, hòng từng bước làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiến tới xóa bỏ nền tảng tư tưởng chính trị, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.
Về chủ thể: Phủ nhận, xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chủ yếu thông qua các tổ chức, hội, nhóm phi chính phủ khoác áo dân chủ, nhân quyền; một số nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài; các lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan ở các nước phương Tây; một số phần tử cơ hội, chống đối chính trị ở trong nước bị các thế lực thù địch mua chuộc, lợi dụng, chỉ đạo.
Về nội dung: Ra sức tuyệt đối hóa, cổ vũ cho dân chủ tư sản phương Tây, mặt khác, tập trung bóp méo, xuyên tạc thành tựu của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện dân chủ, vu cáo Việt Nam “mất dân chủ”, “không có dân chủ”, “vi phạm dân chủ”; đối lập dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, với sự quản lý của Nhà nước; quy kết nguyên nhân của “mất dân chủ” là do “một đảng lãnh đạo”, nên Việt Nam phải thực hiện đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước thì mới có dân chủ.
Về hình thức, phương pháp: Các thế lực thù địch thực hiện nhiều hình thức, phương pháp rất tinh vi, xảo quyệt. Chúng kết hợp chống phá về lý luận với lối suy diễn “thổi phồng” các vấn đề xã hội; kết hợp chống phá từ bên ngoài với thúc đẩy hình thành hội, nhóm, tổ chức đối lập ở trong nước. Đặc biệt, chúng ra sức lợi dụng thiếu sót, khuyết điểm của ta trong triển khai quản lý, điều hành đất nước, trong thực thi chính sách xã hội để chống phá. Thâm độc hơn, chúng sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, gắn hợp tác, viện trợ kinh tế, ngoại giao với yêu sách về dân chủ, nhân quyền. Các luận điệu mà các thế lực đưa ra tỏ vẻ khách quan, khoa học, trăn trở, tâm huyết với vận mệnh quốc gia, dân tộc, thậm chí còn khoác cái áo “nhà dân chủ”, “yêu nước”, nhưng thực chất là để chống phá, xuyên tạc. Hiện nay, lợi dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch đã triệt để khai thác mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng để tán phát, lan truyền các luận điệu xuyên tạc, chống phá, phủ nhận tính ưu việt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Về hậu quả, tác hại: Các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch đặc biệt nguy hiểm, gây nên sự hoài nghi, hoang mang, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với bản chất, tính ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta và khả năng thực thi dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động biểu tình, bạo loạn chống phá Đảng, Nhà nước, hòng làm thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam.
2- Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ là một thành tố của hình thái ý thức xã hội. Sự ra đời của nền dân chủ tư sản gắn với sự phủ định biện chứng tư tưởng chuyên chế phong kiến là một bước tiến lớn trong lịch sử xã hội loài người. Chế độ tư sản đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc quy định về quyền con người, quyền công dân, góp phần hiện thực hóa một số khát vọng về quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã hình thành được không ít chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.
Tuy nhiên, chế độ dân chủ tư sản vẫn bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản vốn có… Sự suy thoái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã phơi bày sự thật về bất công xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa...
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền lực của nhân dân đã bị biến thành quyền lực của giai cấp tư sản, do vậy những thứ mà các thế lực thù địch đưa ra để minh chứng cho nền dân chủ tư sản chỉ là sự ngụy biện, mị dân, quyền lực chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Pháp luật của nhà nước tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được thể chế hóa thành luật, không phải là ý chí của nhân dân; sự phân chia quyền lực theo cơ chế “tam quyền phân lập” theo kiểu phương Tây thực chất là sự phân chia quyền lực trong nội bộ giai cấp tư sản, giữa các thế lực tư bản với nhau. Xã hội tư bản chủ nghĩa không thể vượt qua giới hạn để đạt đến một nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân, bởi nó dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Không thể bảo đảm thực thi dân chủ cho người bị bóc lột, cho toàn thể nhân dân khi quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất của xã hội còn nằm trong tay một thiểu số kẻ bóc lột.
Thực tiễn các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, chứng minh cho sự mâu thuẫn giữa khẩu hiệu “tự do, dân chủ” của giai cấp tư sản và hiện thực xã hội, cho giới hạn của chủ nghĩa tư bản. Về thực chất, đó vẫn là chế độ dân chủ cho một thiểu số người, là chế độ bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn thể nhân dân lao động. Hơn nữa, việc đề cao lợi ích cá nhân, quyền tự do cá nhân đã dẫn đến sự đối nghịch giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, làm cho con người trở nên thực dụng, vị kỷ, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến khuyết tật cố hữu trong xã hội tư bản, như bất bình đẳng xã hội, tình trạng thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái…
Luận giải ở trên cho thấy, chế độ dân chủ tư sản tuy đã thể hiện sự vượt trội so với thời kỳ phong kiến nhưng vẫn bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Dân chủ là một giá trị xã hội, là một thành tố của ý thức xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi quốc gia, dân tộc, trên cơ sở đặc điểm kinh tế, chính trị, địa lý, văn hóa, lịch sử,… của quốc gia, dân tộc mình, có quyền lựa chọn thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Bên cạnh đó, một chế độ xã hội tiến bộ dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội sẽ tất yếu thiết lập một nền dân chủ thực sự cho nhân dân, trong đó các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ phải là đích đến của nhân loại tiến bộ.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một nền dân chủ mới xuất hiện, đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình phát triển dân chủ của xã hội loài người. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân được thiết lập. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga từ thân phận nô lệ đã đứng lên tự giải phóng mình, trở thành những người làm chủ xã hội. V. I. Lê-nin từng khẳng định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần: Chính quyền xô-viết so với nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”(1). Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, đáp ứng khát vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà mọi quyền lực đều thực sự thuộc về nhân dân. Đây là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử - nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giải quyết được một vấn đề cố hữu mà chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được, đó là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau.
Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Thực tiễn cho thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Nhân dân thực sự làm chủ, tự mình tổ chức và xây dựng xã hội mới, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Bản chất tốt đẹp cùng với tính ưu việt của nền dân chủ ở nước ta được thể hiện ngày càng sinh động, cụ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quyền con người, quyền công dân được bảo đảm và thực hiện trên thực tế theo đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2). Nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, thông qua cả hình thức làm chủ trực tiếp và làm chủ gián tiếp. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là kết quả của cả một quá trình nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, liên tục của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong hiện thực hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, chế độ dân chủ ở nước ta là chế độ mà ở đó “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, được xây dựng dựa trên nền tảng là “liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(3); là chế độ phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân.
Khẳng định việc thực hiện dân chủ không thể tách rời kỷ luật, kỷ cương, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Việc thiết lập nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết và căn bản cho việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ chung chung”. Mỗi chế độ dân chủ đều gắn liền với một kiểu nhà nước và đều mang bản chất của giai cấp thống trị.
Khác với các kiểu nhà nước trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà nước”. Theo đó, nhà nước thực hiện chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu, nhằm thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự chuyên chính là thứ yếu, song rất cần thiết, nhằm ngăn ngừa hành vi chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng, đi ngược lại giá trị dân chủ, xâm phạm quyền lợi chân chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cản trở tiến trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cũng chính vì thế, Đảng ta nhất quán trong việc tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(4). Dân chủ gắn liền với kỷ cương là điều kiện tiên quyết để quyền lợi của mỗi người đi đôi với việc thực hiện nghĩa vụ, tránh dân chủ quá trớn, dân chủ tùy tiện, vô chính phủ, vô nguyên tắc. Thực thi dân chủ bừa bãi, sai nguyên tắc là trái với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới mất dân chủ, là cơ hội cho nạn quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, tiêu cực phát triển.
Khẳng định việc thực hiện đa nguyên, đa đảng không phải là điều kiện để có dân chủ. Việc thực hiện dân chủ phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào việc đảng cầm quyền có mang bản chất cách mạng, tiên phong hay không, có bảo vệ, bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội. Ở nước ta, việc từ bỏ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên, đa đảng không những sẽ không dân chủ hơn mà còn dẫn tới xã hội hỗn loạn, đất nước mất ổn định, đời sống nhân dân gặp khó khăn, thậm chí đánh mất thành quả cách mạng mà các thế hệ đi trước đã không quản ngại gian khổ, hy sinh để đấu tranh giành, giữ là độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chính vì thế, luận điệu đòi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” mà các thế lực thù địch rêu rao, thực chất là âm mưu, thủ đoạn hòng tước bỏ tính chất xã hội chủ nghĩa của nền dân chủ ở nước ta. Đây là điều không thể chấp nhận được vì nó đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam.
Trong xã hội tư bản, “sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất”(5). Đối với nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ... Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6). Trên thực tế, việc thiết lập hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự bảo đảm chắc chắn nhất, để thực thi tốt nhất quyền dân chủ của nhân dân; làm cho nền dân chủ ngày càng được mở rộng và đi vào thực chất, thể hiện đúng bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
3- Một số giải pháp phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Cuộc đấu tranh chống các quan điểm thù địch, chống phá nước ta còn diễn ra lâu dài. Các chiêu bài phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn là trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trong bối cảnh đó, để việc đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang lại hiệu quả cao, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng.
Giải pháp này là cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó tập trung đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục kiên quyết, kiên trì lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng yếu, thường xuyên và lâu dài này; tập trung xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các tổ chức nòng cốt đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; phát hiện và đấu tranh phản bác kịp thời các âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta của các thế lực thù địch.
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đây là giải pháp quan trọng để góp phần thống nhất nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về bản chất cách mạng, khoa học của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cần tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân. “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng và phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”(7). Từ đó, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng thời, làm cho mọi người thấy được sự nguỵ biện, xảo trá, thiếu cơ sở khoa học trong luận điệu của các thế lực thù địch. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thấy rõ trách nhiệm của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Qua đó, hình thành thế trận đấu tranh toàn dân trên mặt trận tư tưởng, lý luận nói chung, làm thất bại âm mưu xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch nói riêng.
Thứ ba, phát huy vai trò của các lực lượng chuyên trách, cộng tác viên trong đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch, đòi hỏi có lập luận chính xác, khoa học, chỉ rõ được điểm sai trái, sự nguỵ biện, phi lô-gic trong luận điệu chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời, nêu bật, khẳng định được tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần coi trọng đào tạo, bồi dưỡng các lực lượng chuyên trách làm công tác này, để họ nắm vững, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có kiến thức sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực; có tinh thần trách nhiệm cao, có năng lực, trình độ lý luận, kinh nghiệm và dũng khí đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Phát huy vai trò, khả năng của nhà khoa học, nhà nghiên cứu lý luận, đội ngũ văn, nghệ sĩ, trí thức, người có uy tín, người có ảnh hưởng lớn trên không gian mạng để đấu tranh; quan tâm thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù cho các lực lượng này để tạo động lực và điều kiện tốt nhất cho họ trong quá trình đấu tranh.
Thứ tư, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện nhiều thủ đoạn, giả hiệu khoa học, sử dụng tinh vi thuật ngụy biện và lô-gic hình thức để xuyên tạc nội dung, bản chất, sự ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế này đòi hỏi chúng ta thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh. Thực hiện phương châm “xây” gắn liền với “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả, với biện pháp phù hợp. Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục trong nội dung đấu tranh phản bác các quan điểm phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác đấu tranh. Kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh lý luận sắc bén với hình thức sân khấu hóa, văn thơ, nhạc kịch… Tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là không gian mạng, tăng cường đăng tải bài viết trên trang web, blog, fanpage, mạng xã hội, youtube, các diễn đàn để đấu tranh, nhằm bảo đảm tính kịp thời, nâng cao phạm vi tuyên truyền, đấu tranh và tiếp cận được đông đảo quần chúng nhân dân.
Thứ năm, phản ảnh, khẳng định bản chất tốt đẹp và những thành tựu trong thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo đó, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo gắn với công bằng xã hội. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khắc phục hạn chế, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước, trong thực thi chính sách xã hội, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kịp thời lắng nghe, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về những thành tựu xây dựng đất nước, thực hiện dân chủ ở nước ta. Kết hợp chặt chẽ các kênh thông tin, tuyên truyền; tận dụng thế mạnh ngoại giao, hợp tác quốc tế để tuyên truyền, làm cho cộng đồng quốc tế, đồng bào ta ở nước ngoài thấy rõ những thành tựu của nền dân chủ ở Việt Nam, qua đó đập tan các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ sáu, chủ động nắm tình hình, kịp thời dự báo âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo, thường xuyên nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; nhận rõ sự xảo quyệt, thâm hiểm của các thế lực thù địch khi đưa ra các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Xác định đúng đối tượng đấu tranh, các phương thức mà chúng sử dụng; đề cao cảnh giác, dự báo chính xác trọng điểm chống phá, nơi có thể trở thành “điểm nóng” mà các thế lực thù địch hướng đến, đặc biệt là địa bàn quan trọng, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, xảy ra khiếu kiện kéo dài. Kết hợp chặt chẽ giữa ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tấn công, đập tan các luận điểm xuyên tạc, chống phá, không để rơi vào thế bị động, bất ngờ; chủ động tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trước mỗi kỳ đại hội Đảng, kỳ họp của Quốc hội hay trong dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước. Tăng cường ứng dụng giải pháp công nghệ, kỹ thuật số để phát hiện, phản bác kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch. Tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./.
NGUYỄN ĐÌNH TRUNG, Thiếu tướng, Chính ủy Học viện Khoa học quân sự
--------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 37, tr. 312 - 313
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 173
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 85
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 119
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 21
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28
Ý kiến bạn đọc (0)