Xúc cảm cánh thư từ chiến trường
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông Ngô Văn Hạng (SN 1950), quê ở xã Đức Thắng (Hiệp Hòa, Bắc Giang), hiện sống tại phường Tân Lập (TP Thái Nguyên) có ba anh ruột hy sinh, trong đó có Anh hùng LLVT nhân dân Ngô Văn Nhỡ (SN 1944). Nhớ về anh trai, ông Hạng kể: Bố mẹ tôi sinh được 12 người con, tôi là thứ 5. Bác Nhỡ nhập ngũ năm 1963, còn tôi làm việc ở Công ty gang thép Thái Nguyên. Trong nhà mấy anh lớn đều đi bộ đội, tôi không ra chiến trường nên bác coi tôi như trụ cột, luôn nhắc ở nhà thay các anh chăm sóc cha mẹ và các em. Trong lá thư gửi em trai, bác Nhỡ đã viết những dòng tha thiết: “Hạng em quý mến! Hôm nay ở đơn vị có đồng chí ra Bắc công tác, anh tranh thủ biên thư mấy dòng về thăm em. Trước hết em bảo với thầy u là không phải lo gì cho anh cả, cố gắng bảo ban các em học tập cho thật tốt nhé!”- thư ngày 21/7/1971.
![]() |
|
Những lá thư thời chiến đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh. |
Trò chuyện với ông Hạng, được biết hai anh em thường xuyên liên lạc với nhau qua thư. Dù chiến tranh khắc nghiệt thế nào, anh Nhỡ vẫn luôn nhớ đến gia đình, quê hương, đều đặn mỗi tháng gửi từ 1 đến 2 lá thư. Có lần nhận được thư anh nhưng nét chữ nguệch ngoạc, chỉ gói gọn trong một trang giấy với vài câu thông tin về tình hình sức khỏe, hỏi thăm các thành viên trong gia đình. Những lúc như thế, lòng ông Hạng thật xót xa, đoán có thể anh đang viết vội hay gặp đạn pháo gì đó. Cũng có lá thư dài đến 6 trang giấy, viết nắn nót bằng nét bút bi màu xanh, có vẻ như anh đang rất thư thái, hào hứng hỏi thăm từng người, trong đó có cả người yêu là chị Loan (bà Quách Thị Loan- vợ ông Nhỡ sau này). Thư nào anh viết cũng xúc động, chan chứa tình cảm yêu thương. “Bác ấy hy sinh vào sáng 30/4/1975, chỉ vài giờ trước khi Sài Gòn giải phóng, thật đáng tiếc. Cháu Ngô Văn Việt - con trai bác ấy mới được mấy tháng tuổi, chưa hề biết mặt cha. Sau này, tôi đã chuyển tất cả những lá thư của bác Nhỡ cho cháu Việt, để cháu hình dung về cha mình đã sống và chiến đấu dũng cảm như thế nào cho Tổ quốc”- ông Hạng ngậm ngùi.
![]() |
|
CCB Hoàng Minh Toán, xã Lão Hộ (Yên Dũng) ôn lại kỷ niệm ở chiến trường. |
Chiến trường ác liệt, bất kể người chiến sĩ nào cũng có thể gặp điều không may nhưng thư họ gửi về gia đình lại tràn đầy sự lạc quan, tự hào. Từ chiến trường Quảng Trị, chiến sĩ Nguyễn Quang Hà gửi thư cho người đồng đội Hà Ngọc Chuyên, xã Mỹ Hà (Lạng Giang). “Hôm nay trên đất Quảng Trị, em viết thư thăm anh, lòng rộn lên bao ý nghĩ những ngày tháng của mùa thu nơi anh em chúng ta gặp nhau, cùng chung một lý tưởng, một chiến hào đánh Mỹ. Sống và được sống cuộc đời của những người lính, thật là phấn khởi và tự hào phải không anh” - thư ngày 15/8/1974.
Và đây nữa, người anh bộ đội tên Chiến gửi em trai là Thắng chứa chan tình cảm anh em, khắc khoải ngày đoàn tụ: “Hòa Bình ngày 7/10/1967: Hôm nay anh nhận được thư em trong một niềm phấn khởi lớn, bởi anh vừa đi bắn bài xạ kích về và đạt loại giỏi. Anh thì đã là một anh bộ đội, còn em là một công nhân kỹ thuật rồi, cả hai anh em mình cũng cố gắng nhé. Thắng ơi, anh thương em lắm, anh và em xa nhau cũng chỉ vì chiến tranh gây ra cả thôi. Anh em mình nhất định sẽ phải gặp nhau trước khi anh đi Nam chiến đấu Thắng nhỉ!”.
Tại Bảo tàng tỉnh, tôi được đọc lá thư chiến sĩ Nguyễn Công Bịch (HT 865-2021 K48) gửi Hội mẹ chiến sĩ xóm Bỉ, xã Ngọc Thiện (Tân Yên) tràn đầy tình cảm quân dân. “Thưa Hội mẹ, con rất phấn khởi vừa qua được nghe trên đài nói về phong trào Hội Mẹ xã ta với những thành tích đáng kể. Chúng con sẽ ra sức tiêu diệt thật nhiều giặc Mỹ để đáp ứng sự tận tình chăm sóc của các mẹ, để Bắc Nam sớm sum họp, mẹ con ta cũng sớm được sum họp một nhà”. Hay lá thư thấm đẫm tình người trong chiến tranh: “Ngày 12/4/1969: Hôm nay Bịch con từ tiền tuyến biên thư về hỏi thăm sức khỏe của Hội mẹ giữa lúc cả hai miền Nam Bắc đã ròn rã chiến thắng. Ở trong này, chúng con ngày ăn 3 bữa, quần áo lành lặn, Hội mẹ ở đây cũng không khác gì ngoài ấy. Chúng con đi chiến đấu, các má, các chị đến thăm sức khỏe động viên cả tinh thần và vật chất nữa, thật là tình quân dân như cá với nước; tình Bắc - Nam ruột thịt keo sơn. Nói sao cho hết được những tình cảm của những người mẹ ở tiền tuyến và hậu phương, coi chúng con như người con đẻ vậy.”.
Chiến tranh, người còn người mất, có người may mắn trở về lành lặn như người chiến sĩ lái xe vận tải trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa- CCB Hoàng Minh Toán (SN 1951), thôn Thượng Tùng, xã Lão Hộ (Yên Dũng). Trong chiếc tủ gỗ cũ kỹ, ông cẩn thận mang ra mấy chục lá thư và những cuốn nhật ký chiến trường mà ông gửi cho người vợ trẻ Trần Thị Chung. Lần giở từng bức thư, ông giới thiệu có bức được viết tại lán trại, bức viết tranh thủ trên con đường 20 huyền thoại, có bức viết cạnh bờ suối trên mảnh giấy xé ở thùng cát-tông. Dù viết ở đâu thì cũng đều là những cảm xúc yêu thương, động viên vợ yên tâm lao động sản xuất, chờ ngày chiến thắng trở về: “Em Thu Chung thương yêu. Khi bước vào cuộc đời chiến binh, anh đã biết tình cảm của chúng ta chắc chắn sẽ có những lúc gián đoạn. Nhưng đóa hoa hạnh phúc của chúng ta vẫn tươi thắm, bền màu như xưa- ngày 9/7/1972”.
Đọc những lá thư thời chiến, chúng ta càng hiểu hơn về thế hệ cha anh đi trước, một thế hệ thanh niên tràn đầy lý tưởng cách mạng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư để chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Tuấn Minh
Bắc Ninh



















Ý kiến bạn đọc (0)