Chú Năm thương binh
BẮC NINH - Chú Năm không lập gia đình. Dân làng nhiều lần mai mối cho chú, cô giáo, y tá, rồi cả người góa bụa cùng xóm… Nhưng lần nào, chú cũng nhẹ nhàng từ chối...
Quê tôi có con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn ra cánh đồng Tràm Mộc, nơi chiều nào cũng có một người đàn ông dáng khắc khổ, chống chiếc nạng gỗ, chầm chậm đi bộ, thỉnh thoảng dừng lại ngắm hoàng hôn. Người đó là chú Năm - một thương binh trở về từ chiến trường Quảng Trị năm nào. Chú sống một mình trong căn nhà lợp ngói cũ kỹ, giữa vườn xoài và cau xanh rì. Dân làng ai cũng kính trọng chú. Trẻ con thì gọi chú là “ông lính cụt chân”, người lớn gọi bằng “chú Năm thương binh”. Nhưng với tôi, chú Năm là cả một miền ký ức.
![]() |
Minh họa: AI |
Chú từng là người dạy tôi cách trồng rau, cách thổi cơm bằng rơm và cách lặng im lắng nghe tiếng thời gian chảy trôi trên gương mặt những người từng đi qua chiến tranh. Tôi thường sang thăm chú mỗi cuối tuần. Có lần, tôi hỏi:
- Chú Năm ơi, chú mất chân ở chiến trường hả chú?
Chú mỉm cười, xoa đầu tôi:
- Ừ, chân thì mất rồi, nhưng lòng thì còn nguyên vẹn với đất nước.
Tôi chẳng hiểu hết câu đó lúc ấy, chỉ thấy ánh mắt chú bỗng xa xăm như đang nhìn về một nơi nào đó rất xa. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu, chiến tranh không chỉ cướp đi một phần thân thể người lính mà còn để lại trong họ những mảnh ký ức chẳng thể lành.
**
Chú Năm nhập ngũ khi vừa tròn mười chín tuổi, lúc chiếc bằng tốt nghiệp lớp mười còn chưa kịp rám màu thời gian. Những năm ấy, quê tôi chìm trong khói lửa.
Bom Mỹ trút xuống ngày đêm, lúa ngoài đồng cháy đen từng thửa, cây cối quặt quẹo như bị rút cạn sự sống. Trẻ con co rúm người mỗi lần còi báo động hú lên chói tai.
Người lớn thì đội đất, trốn hầm mà vẫn canh cánh một niềm đau. Giữa những ngày mịt mù đó, khát vọng ra trận cháy bừng trong lòng thanh niên. Chú Năm kể lại, giọng khẽ nhưng ánh mắt như bừng lửa:
- Hồi ấy, ai cũng chỉ mong được cầm súng, vì lòng yêu nước không nói thành lời, mà cứ dồn dập trong ngực như trống trận.
Chú được điều vào mặt trận B5 - Quảng Trị, nơi từng tấc đất thấm đẫm máu và nước mắt người lính. Ở đó, sống và chết cách nhau gang tấc mà không ai lùi bước. Đêm xuống, pháo giội tới tấp. Có khi, người anh em nằm bên mới kể chuyện quê nhà hôm trước, hôm sau đã vĩnh viễn không còn. Trong vô số những mất mát, chú nhớ nhất anh Ba Vinh và anh Tư Lễ - hai người đồng đội thân như ruột thịt, đã ngã xuống ven bờ sông Thạch Hãn, nơi mùa hè đỏ lửa năm ấy không còn tiếng ve, chỉ có tiếng đạn gào.
Một lần, trong căn nhà tranh của chú, tôi tình cờ thấy cuốn sổ tay đã sờn gáy, giấu dưới gối. Trang giấy mực tím loang màu thời gian, dòng chữ nghiêng nghiêng run rẩy mà ám ảnh: “Đêm 7 tháng 7 năm 1972. Pháo nổ sát bên. Tôi văng khỏi hầm. Khi tỉnh lại, chân trái nát bấy. Ba Vinh ôm tôi, nước mắt rơi: “Mày đừng chết nghe Năm”. Tôi cười: “Tao không chết đâu, tao còn về quê nuôi vịt nữa”. Vậy mà hôm sau, nó đi… đi không một lời trăn trối”.
Chú Năm được cáng về tuyến sau, rồi chuyển ra Bắc điều trị. Mảnh đạn giành lại mạng sống cho chú nhưng chân trái cụt đến đầu gối. Ngày trở về quê, chú chỉ mang theo chiếc ba lô bạc màu, mảnh giấy chứng nhận thương binh và một trái tim còn nguyên nỗi đau âm ỉ. Mẹ chú đã mất khi chú còn ngoài mặt trận, cha thì lưng còng mắt mờ. Căn nhà xưa từng ấm tiếng ru giờ chỉ còn là chốn nương thân cho một người lính trở về, lặng lẽ và đơn độc. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe chú than thân. Ngày qua ngày, chú trồng rau, nuôi gà, sống giản dị như cỏ cây mà đầy nghị lực. Chiếc nạng gỗ theo chú suốt mấy mươi năm như một phần cơ thể.
Mỗi năm, đúng vào dịp tháng Bảy, chú lại xin xã cho phép đi thăm lại Quảng Trị. Trong ba lô là ít bánh trái, bó hoa cúc trắng và vài nén nhang. Có năm tôi xin theo. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn hôm ấy vắng, gió lồng lộng thổi qua hàng bạch đàn thẳng tắp. Chú dừng lại trước một tấm bia đá, ánh mắt rưng rưng:
- Đây… Ba Vinh đây. Nó hứa về quê lấy vợ mà giờ còn chẳng có lấy một tấm hình để lại…
Tôi thấy chú đưa tay chạm nhẹ lên dòng tên khắc trên bia. Bàn tay gầy guộc run run, nhưng nước mắt không rơi. Có lẽ những giọt lệ ấy, chú đã chôn cùng bạn bè năm xưa, ở một nơi nào đó ven sông Thạch Hãn, khi đất trời còn mịt mùng khói lửa.
**
Năm tôi học lớp mười hai, trường tổ chức buổi sinh hoạt truyền thống kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ. Hôm ấy, chú Năm được mời lên chia sẻ. Cả hội trường vang tiếng vỗ tay khi chú chống nạng bước lên sân khấu, dáng người gầy nhưng vững chãi, như đã đi qua mọi bão giông. Chú ngồi trên chiếc ghế gỗ cũ kỹ, áo sơ mi đã bạc màu nhưng được ủi phẳng phiu. Giọng chú vang lên, chậm rãi mà rắn rỏi, như thể mỗi lời đều được gạn ra từ ký ức đầy máu lửa:
- Chiến tranh… tàn khốc lắm, tụi nhỏ ạ. Nó cướp đi mạng sống, tuổi trẻ và cả những ước mơ chưa kịp thành hình. Nhưng giữa ranh giới sống chết, chú học được một điều quan trọng: đừng bao giờ đánh mất lòng tin vào con người và Tổ quốc.
Không gian bỗng trở nên lặng như tờ. Không tiếng xì xào, không tiếng ghế dịch chuyển. Tôi nhìn quanh, nhiều ánh mắt bạn bè đỏ hoe. Có bạn khẽ nói với tôi sau buổi gặp mặt:
- Tưởng mấy chú thương binh chỉ toàn chuyện súng đạn khô khan, ai ngờ… hay thiệt đó.
Tôi cười. Bởi tôi hiểu hơn ai hết, đằng sau dáng vẻ cứng cỏi kia là một trái tim dịu dàng, đầy yêu thương. Một trái tim đã từng nồng nhiệt, từng đau đớn, từng mất mát và vẫn giữ được sự mềm mại trước cuộc đời.
Chú Năm không lập gia đình. Dân làng nhiều lần mai mối cho chú, cô giáo, y tá, rồi cả người góa bụa cùng xóm… Nhưng lần nào, chú cũng nhẹ nhàng từ chối. Có lần, tôi hỏi bâng quơ:
- Chú không lấy vợ là tiếc lắm đó nghe!
Chú nhìn xa xăm ra vườn cau, giọng trầm lại:
- Mình không còn lành lặn. Mà lấy người ta về rồi lại khổ cả đời. Với lại… trái tim chú để lại Quảng Trị mất rồi, cháu à.
Tôi sững người. Lần đầu tiên, chú để lộ một điều gì đó rất riêng, rất sâu thẳm. Sau này, bà Sáu hàng xóm kể cho tôi nghe câu chuyện mà ít người biết. Rằng năm ấy, khi chú bị thương nặng được đưa về trạm quân y, có một cô y tá trẻ tên Duyên ngày ngày chăm sóc chú. Cô là người Hà Nam, xinh xắn, giọng nói dịu dàng như sương sớm. Chính cô là người đỡ chú ngồi dậy từng ngày, thay băng cho vết thương, dỗ chú ăn từng thìa cháo trắng. Tình cảm cứ thế lớn dần, thầm lặng mà da diết, giữa những ngày đạn bom giăng giăng.
Cô Duyên từng nói với đồng đội:
- Nếu anh ấy sống, em sẽ theo anh về quê, mặc áo bà ba, làm dâu đất phương Nam...
Nhưng số phận khắc nghiệt chẳng bao giờ chiều lòng người. Trong một đêm trực, trạm xá bị máy bay oanh tạc. Cô Duyên hy sinh, khi chỉ còn một tuần nữa là được điều chuyển ra Bắc nghỉ phép. Chú Năm nằm bất động trên băng ca dã chiến, không thể ra cứu. Tin cô mất đến với chú như một nhát chém không máu mà sâu tận tim gan. Từ đó, chú sống khép mình, lặng lẽ như gió thổi qua những hàng dừa. Chẳng ai nghe chú kể về mối tình ấy, chỉ thấy mỗi lần nhắc đến Quảng Trị, mắt chú bỗng long lanh như có làn khói mỏng vương ngang.
Tôi từng nghĩ, tình yêu là thứ dễ lãng quên nhất trong đời người. Nhưng chú Năm khiến tôi hiểu rằng, có những tình yêu chỉ sống một lần, nhưng dài cả một kiếp người. Và chú, dù mất một chân, mất một người thương, vẫn sống trọn nghĩa, trọn tình, như thể chưa từng mất mát điều gì.
**
Tháng Bảy năm ngoái, chú Năm bạo bệnh. Nhận được tin, tôi vội vã bỏ dở công việc ở thành phố, bắt chuyến xe đêm về quê. Căn nhà nhỏ của chú nằm bên con đường làng rợp bóng tre. Khi bước vào, tôi lặng người. Chú nằm đó, gầy gò như cành củi khô, gương mặt hốc hác nhưng đôi mắt vẫn sáng như ngày nào – ánh sáng của một đời kiêu hãnh, của người từng đi qua lửa đạn.
Chú khẽ nắm tay tôi, bàn tay chai sần nhưng ấm áp. Giọng chú yếu ớt, ngắt quãng:
- Mày cố gắng học cho giỏi, rồi nhớ sống tử tế. Tổ quốc giờ hòa bình, có được là nhờ lớp tụi tao giữ. Giữ tiếp, là nhờ tụi mày.
Tôi nghẹn lời, nước mắt trào ra, chỉ biết siết tay chú như muốn giữ lại từng phút giây.
Một tuần sau, chú ra đi, lặng lẽ như một chiếc lá rụng về với đất mẹ, mảnh đất đã nuôi lớn chú, từng chở che chú trong những tháng năm chiến tranh khốc liệt. Ngày đưa tang, cả làng tiễn chú trong tiếng kèn trầm buồn. Huyện cũng cử đoàn đến viếng.
Những người lính già năm xưa, tóc bạc phơ, khoác bộ quân phục cũ, đứng nghiêm trang giơ tay chào người đồng đội vừa về với đất. Tôi nghe rõ tiếng nấc nghẹn của một bác cựu binh: “Năm ơi, nghỉ ngơi đi, chúng tao ở lại giữ lời hẹn với mày”.
Trên bàn thờ đơn sơ, tôi lặng lẽ đặt lại cuốn sổ tay cũ - cuốn sổ mà chú từng ghi chép bao ký ức về chiến trường, về Ba Vinh, người đồng đội đã ngã xuống. Lật trang giấy đã ố vàng, chữ chú vẫn còn nét cứng cỏi. Dưới dòng chữ của chú, tôi run run viết thêm: “Chú Năm đã về. Đủ đầy một đời nghĩa tình”.
Mỗi lần trở lại quê, tôi thường đứng lặng trước hiên nhà chú. Vạt nắng chiều rải qua giàn hoa giấy tím, lung linh như những cánh bướm nhỏ. Gió từ cánh đồng Tràm Mộc thổi về, khẽ rì rầm, như mang theo tiếng bước chân chậm rãi của người lính già trong ký ức tôi.
Chú Năm không còn nữa, nhưng hình ảnh chú, một thương binh mang trong tim cả một thời trận mạc, cả một trời yêu thương vẫn sống mãi. Chú sống trong lòng tôi, trong câu chuyện của làng quê, và trong ký ức của cả dân tộc này, như một ngọn lửa âm ỉ cháy, soi sáng những bước đường tôi đi.
Ý kiến bạn đọc (0)